Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 67/2021/HSST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2021/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Bảo L: Sinh ngày 21 tháng 4 năm 1988 tại B.T; Nơi cư trú: khu phố 2, phường Phú Thủy, TP.P, tỉnh B.T; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: ông Huỳnh Thanh Sơn (không rõ năm sinh, ở đâu); Mẹ: bà Nguyễn Thị Ngọc Thu; sinh năm 1965; nghề nghiệp: không; Nơi cư trú: khu phố 2, phường Phú Thủy, TP.P, tỉnh B.T; Anh chị em ruột: 02 người, bị can là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị Trúc Linh, sinh năm 2002; Nơi cư trú: khu phố 2, phường Phú Thủy, TP.P, tỉnh B.T; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

2. Nguyễn Thị Mỹ N: Sinh ngày 22 tháng 4 năm 1993 tại A.G; HKTT: ấp B.Q 2, xã B.T.Đ, huyện P.T, tỉnh A.G; Chỗ ở hiện nay: khu phố 3, phường P.T.1, TP. P, tỉnh B.T; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Hòa Hảo; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: ông Nguyễn Văn Hùng D; sinh năm 1965; nghề nghiệp: giáo viên; Mẹ: bà Ngô Thị Lệ T; sinh năm 1966; nghề nghiệp: nội trợ; Cùng cư trú: ấp B.Q 2, xã B.T.Đ , huyện P.T, tỉnh A.G; Anh chị em ruột: 02 người, bị can là con thứ hai trong gia đình; Chồng: Nguyễn Trung Đ, sinh năm: 1991 (không đăng ký kết hôn); Con: Nguyễn Thị Bảo A, sinh năm 2016; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 12/10/2020, Huỳnh Bảo L vào bar Parisnight chơi với bạn và có sử dụng ma túy loại thuốc lắc. Trong quá trình chơi tại đây, bạn L (không rõ N thân) cho L 01 viên thuốc lắc dạng viên thuốc tây, hình con nhộng, màu trắng. L gói viên thuốc lắc vào trong miếng giấy và cất trong người để dành sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 13/10/2020, L gọi điện thoại cho Nguyễn Thị Mỹ N rủ N đi bar Parisnight chơi, N đồng ý. L đến phòng trọ của N tại khu phố 3, phường P.T.1, TP. P để chở N. Trên đường đi, L rủ N góp tiền mua ma túy để vào bar sử dụng, L góp 600.000 đồng, N góp 600.000 đồng, tổng cộng là 1.200.000 đồng. Sau đó, L gọi điện thoại cho một người tên Đỏ (không rõ N thân, không nhớ số thuê bao) hỏi mua 04 viên thuốc lắc với giá 300.000 đồng/viên, Đỏ đồng ý bán và hẹn L đến chỗ phòng trà Lâm Kiều, đường Tôn Đức Thắng lấy ma túy. L chở N đến trước bar Parisnight bảo N đứng chờ để L đi mua ma túy. L đến điểm hẹn gặp Đỏ và giao cho Đỏ 1.200.000 đồng, Đỏ nhận tiền rồi giao cho L 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Caraven, bên trong có 01 gói nylon không màu, có nhíp kéo viền màu đỏ chứa 04 viên thuốc lắc dạng viên thuốc tây, hình con nhộng màu trắng. L cất vào túi quần phía trước bên phải của L rồi quay lại chỗ của N. L gặp N nói đã mua được ma túy và bảo N lên xe cho L chở vào Parisnight. Khi N vừa lên xe ngồi thì bị tổ liên quân 512 - Công an tỉnh B.T đang tuần tra đến kiểm tra hành chính, phát hiện L đang tàng trữ trái phép chất ma túy. L và N đều khai nhận đó là ma túy. Tổ liên quân 512 đã thu giữ toàn bộ các tang vật có liên quan và áp giải các đối tượng bàn giao cho Đội CSĐT tội phạm về ma túy - Công an thành phố P lập hồ sơ xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 vỏ bao thuốc lá màu xám đen có dòng chữ Caraven bên trong có chứa 01 gói nylon không màu, có nhíp kéo viền đỏ một đầu, kích thước (04 x 07 cm), bên trong gói nylon chứa 04 viên dạng viên thuốc tây, hình con nhộng màu trắng, bên trong 04 viên hình con nhộng đều chứa chất bột màu xám. Thu giữ trong túi quần jean phía trước, bên phải của L.

- 01 gói giấy bên trong có 01 viên dạng viên thuốc tây, hình con nhộng màu trắng, bên trong viên hình con nhộng chứa chất bột màu xám. Thu giữ trong túi quần jean phía trước, bên trái của L.

- 01 xe mô tô hiệu Vision, màu trắng, biển số 86B3-728.25, số khung RLHJF5839KY522130, số máy JF86E-0222080.

- 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đen đỏ, gắn sim số 0941839028.

- Số tiền 1.200.000 đồng, thu giữ của Nguyễn Thị Mỹ N.

Tại kết luận giám định số 1125/KLGĐ-PC09 ngày 20/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.T đã kết luận:

Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,4906 gam, là MDMA.

Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,4206 gam, là MDMA.

Hoàn lại đối tượng giám định :

Gói nylon, 04 viên hình con nhộng đã nêu tại mục 2.1 và 1,0126 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1125/1 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh B.T.

Gói giấy, viên hình con nhộng đã nêu tại mục 2.2 được niêm phong trong phong bì số 1125/2 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh B.T. (Trong quá trình giám định mẫu M2 đã được sử dụng hết) Hiện các mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1125/1, 1125/2 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.T; 01 vỏ bao thuốc lá màu xám đen có dòng chữ Caraven; 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đen đỏ, gắn sim số 0941839028; Viện kiểm sát N TP.P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự TP.P bảo quản chờ xử lý.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 86B3-728.25, số khung RLHJF5839KY522130, số máy JF86E0222080: Huỳnh Bảo L khai mượn xe của Dương nhà ở Hàm Hiệp vào chiều ngày 13/10/2020 để đi công việc. Qua xác minh, xe mô tô trên được đăng ký cho ông Lương Thuận Dương (sinh năm 1998, địa chỉ: Đại Lộc, Hàm Hiệp, H.T.B, B.T). Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.P đã nhiều lần mời Dương làm việc và xác minh tại địa phương nhưng Dương hiện không có mặt tại địa phương. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.P tiếp tục tạm giữ, xác minh, xử lý sau.

Đối với số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Mỹ N, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá N của N, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.P đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại cho N.

Quá trình điều tra, Huỳnh Bảo L, Nguyễn Thị Mỹ N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. L và N khai mua ma túy về tàng trữ để sử dụng chứ không có mục đích bán cho người khác.

Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Huỳnh Bảo L và Nguyễn Thị Mỹ N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo L từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ N từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì được niêm phong trong phong bì số 1125/1, 1125/2 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.T; 01 vỏ bao thuốc lá màu xám đen có dòng chữ Caraven;

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đen đỏ, gắn sim số 0941839028 mà L dùng để liên hệ mua ma túy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 86B3-728.25, số khung RLHJF5839KY522130, số máy JF86E0222080: Huỳnh Bảo L khai mượn xe của Dương nhà ở Hàm Hiệp vào chiều ngày 13/10/2020 để đi công việc. Qua xác minh, xe mô tô trên được đăng ký cho ông Lương Thuận Dương, sinh năm 1998, địa chỉ:

Đại Lộc, Hàm Hiệp, H.T.B, B.T. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã nhiều lần mời ông Dương làm việc và xác minh tại địa phương nhưng ông Dương hiện không có mặt tại địa phương. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P tiếp tục tạm giữ, xác minh, xử lý sau.

- Đối với số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Mỹ N, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá N của N, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại cho N.

Nói lời sau cùng: Các bị cáo xác định cáo trạng truy tố là đúng, không oan, các bị cáo không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 22 giờ 50 phút, ngày 13/10/2020, tổ liên quân 512 - Công an tỉnh B.T tiến hành tuần tra đến trước nhà số T24 đường Phạm Hùng, thuộc khu phố 5, phường Phú Thủy, thành phố P, tỉnh B.T kiểm tra, phát hiện Huỳnh Bảo L có hành vi tàng trữ trái phép 1,9112 gam MDMA, trong đó Nguyễn Thị Mỹ N đi cùng L có góp tiền mua chung 1,4906 gam MDMA nhằm mục đích sử dụng. Tổ liên quân 512 đã thu giữ toàn bộ các tang vật có liên quan và áp giải các đối tượng bàn giao cho Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố P lập hồ sơ xử lý.

Các bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Do vậy, Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Huỳnh Bảo L và Nguyễn Thị Mỹ N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Các bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện, nên đã được Nhà nước quản lý và nghiêm cấm hoạt động tàng trữ, mua bán trái phép và đã ban hành nhiều văn bản, mở các cuộc vận động, tuyên truyền toàn dân tham gia tích cực đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn mua bán, tàng trử và nghiện hút ma túy làm trong sạch xã hội. Thế nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi của các bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Nhất là trong giai đoạn hiện nay tệ nạn ma túy ngày một lây lan, gây ra những hậu quả, hệ lụy nguy hiểm cho xã hội và còn là nguyên N gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác.

Đây là vụ án có đồng phạm với vai trò giản đơn, trong đó bị cáo Huỳnh Bảo L có vai trò rủ rê, lôi kéo nên phải chịu trách nhiệm chính, bị cáo Nguyễn Thị Mỹ N đồng phạm với vai trò góp tiền mua ma túy sử dụng nên phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội các bị cáo có N thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 01, khoản 02 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về mức hình phạt: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo L từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ N từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét đến N thân của các bị cáo, xét thấy cần phải xử lý nghiêm và áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống tội phạm, nên mức hình phạt và điều luật áp dụng của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố P là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì được niêm phong trong phong bì số 1125/1, 1125/2 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.T; 01 vỏ bao thuốc lá màu xám đen có dòng chữ Caraven.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đen đỏ, gắn sim số 0941839028 mà L dùng để liên hệ mua ma túy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 86B3-728.25, số khung RLHJF5839KY522130, số máy JF86E0222080: Huỳnh Bảo L khai mượn xe của Dương nhà ở Hàm Hiệp vào chiều ngày 13/10/2020 để đi công việc. Qua xác minh, xe mô tô trên được đăng ký cho ông Lương Thuận Dương (sinh năm 1998, địa chỉ: Đại Lộc, Hàm Hiệp, H.T.B, B.T). Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.P đã nhiều lần mời Dương làm việc và xác minh tại địa phương nhưng Dương hiện không có mặt tại địa phương. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP.P tiếp tục tạm giữ, xác minh, xử lý sau.

- Đối với số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Mỹ N, quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá N của N, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại cho N là phù hợp.

[7] Các bị cáo phải nộp tiền án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Bảo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Bảo L 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ N 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án 3/ Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điểm a, c Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì được niêm phong trong phong bì số 1125/1, 1125/2 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.T; 01 vỏ bao thuốc lá màu xám đen có dòng chữ Caraven.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đen đỏ, gắn sim số 0941839028 mà L dùng để liên hệ mua ma túy.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 86B3-728.25, số khung RLHJF5839KY522130, số máy JF86E0222080: Huỳnh Bảo L khai mượn xe của Dương nhà ở Hàm Hiệp vào chiều ngày 13/10/2020 để đi công việc. Qua xác minh, xe mô tô trên được đăng ký cho ông Lương Thuận Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã nhiều lần mời Dương làm việc và xác minh tại địa phương nhưng Dương hiện không có mặt tại địa phương. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố P tiếp tục tạm giữ, xác minh, xử lý sau.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 81 ngày 28/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo L, bị cáo N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (26/5/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2021/HSST

Số hiệu:67/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về