Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 671/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 671/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở TAND thành phố Biên Hoà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 737/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 712/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023, Thông báo dời lịch xét xử số 1758/TB-TA ngày 05 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Duy P, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1997, tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: 122/68/29, khu phố 6, phường T, thành phố Bi, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Bùi Văn L, sinh năm 1964; Con bà: Trần Thị Minh T, sinh năm 1967; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ, con Tiền án, tiền sự: không.

Bị tạm giữ từ ngày 13-9-2023, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1534/LTG ngày 21-9-2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Bùi Duy P là người sử dụng trái phép ma túy tổng hợp (hàng đá).

Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 13-9-2023, Phúc đến khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đ mua của người thanh niên tên Tí (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 (Một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Phúc cất giấu gói ma túy nêu trên trong túi quần phía sau bên phải Phúc đang mặc và điều khiển xe mô tô biển số 38FA-X đi tìm nơi để sử dụng ma túy.

Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, P đem theo số ma túy nêu trên đi đến khu vực “Bờ Kè” thuộc tổ 14, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ thì bị Công an phường T phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra, Bùi Duy P khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) gói nilon bên trong chứa chất màu trắng, Phúc khai là ma túy đã được niêm phong có chữ ký của Phúc và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường Tân Mai.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 256GB – số imel 356714119987358 của Bùi Duy P sử dụng liên lạc với Tí để mua ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 2046/KL-KTHS ngày 20-9-2023 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

- Mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1816gam, loại: Methamphetamine.

Đối với xe mô tô biển số 38FA-X Phúc sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy: Kết quả điều tra xác định xe mô tô nêu trên do anh Đặng Quang Huy đứng tên đăng ký xe, vào khoảng tháng 6 năm 2020 anh Huy đã bán xe mô tô cho anh Phan Thanh S (không làm hợp đồng mua bán). Anh Sang cho Phúc mượn sử dụng và không biết Phúc sử dụng xe mô tô đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Sang.

Đối với người thanh niên tên Tí mà P điện thoại liên hệ mua ma túy, sau khi mua ma túy P đã xóa mọi thông tin trong điện thoại của P liên quan đến việc mua bán ma túy với Tí và Phúc không nhớ số điện thoại của Tí. Cơ quan điều tra đang xác minh thông tin số thuê bao của Tí nhưng chưa có kết quả.

Tại Cáo trạng số 683/CT-VKSBH - HS ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Bùi Duy P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà tại phiên tòa:

Về quan điểm truy tố, tội danh, hình phạt đối với bị cáo:

1. Về quan điểm truy tố, tội danh:

- Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Duy P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 

2. Về hình phạt:

- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Không - Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt chưa tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Duy P với mức án từ 01 năm 04 tháng – 01 năm 08 tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo như: bị cáo đã nhận Kết luận điều tra, Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Bùi Duy P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13-9-2023, tại khu vực “Bờ Kè” thuộc tổ 14, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, Bùi Duy P có hành vi tàng trữ trái phép 0,1816gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tân Mai phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax số Imei: 356714119987358.

[5] Đối với người thanh niên tên Tí mà P điện thoại liên hệ mua ma túy, sau khi mua ma túy P đã xóa mọi thông tin trong điện thoại của Phúc liên quan đến việc mua bán ma túy với Tí và P không nhớ số điện thoại của Tí. Cơ quan điều tra đang xác minh thông tin số thuê bao của Tí nhưng chưa có kết quả.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Duy P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Duy P 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13-9-2023.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2046 ngày 20/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax số Imei: 356714119987358.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Bùi Duy P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 671/2023/HS-ST

Số hiệu:671/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về