TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 66/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 84A/2023/QĐXXST – HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thị D, sinh năm 1990, nơi sinh: Nam Định, Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không, HKTT: Ấp 7, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước, Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12, Giới tính: Nữ, Tiền án, tiền sự: Không; Họ và tên cha: Nguyễn Văn V (đã chết), Họ và tên mẹ: Trần Thị S, sinh năm 1960. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/6/2023 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Đặng Ngọc Q, sinh năm 1981, nơi sinh: Tiền Giang, Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không, HKTT: Ấp B, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang, Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 02/12, Giới tính: Nam; Tiền án, tiền sự: Không; Họ và tên cha: Đặng Quốc T (đã chết), Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Minh M (đã chết). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/6/2023 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị D làm giữ xe tại quán Game Đại Ý thuộc khu phố 7, phường Long Phước, thị xã Phước Long. Quá trình làm việc tại đây D nhận thấy có nhiều người có nhu cầu hỏi mua ma túy để sử dụng nên D đã nảy sinh ý định mua ma túy về để bán kiếm lời nên khoảng 16 giờ ngày 16/6/2023, D nhắn tin cho một người tên Huyền (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 750.000 đồng ma túy đá. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì có 01 người phụ nữ đến trước quán game Đại Ý, D đi ra đưa cho người này 750.000 đồng thì người phụ nữ chỉ cho D chỗ để ma túy ở trước cửa quán game Đại ý. Sau đó, D ra nhặt gói ma túy lên rồi lầu cất vào túi quần Jeans phía sau bên trái và treo ở cây sào treo quần áo trong phòng ngủ của D. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày có Đặng Ngọc Q là khách chơi game hỏi mua 200.000 đồng ma túy thì D đồng ý nhận tiền và lấy 02 đoạn ống hút chứa ma túy đưa cho Quý. Sau khi mua được ma túy từ D thì Quý cất số ma túy trên vào ví da màu nâu rồi bỏ vào túi quần. Đến 21 giờ cùng ngày, Huỳnh Công Toàn là khách chơi game hỏi mua 150.000 đồng ma túy thì D đồng ý nhận tiền và đưa cho Toàn 01 đoạn ống hút chứa ma túy đưa cho Toàn. Sau khi mua được ma túy của D thì Toàn đã sử dụng hết. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 17/6/2023 khi Quý đang chuẩn bị dụng cụ sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Ngọc Q và thu giữ vật chứng theo quy định. Đồng thời tiến hành xác minh làm rõ những đối tượng liên quan. Quá trình điều tra Quý và Toàn đã khai ra D. Qua làm việc Quý và D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên (bút lục số 57 đến 78).
Tại Bản kết luận giám định số 680/KL - KTHS ngày 21/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) bên trong 02 đoạn ống hút nhựa và 15 đoạn ống hút nhựa được niêm phong gửi giám định là Ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là: M1=0,2544 gam; M2=1,1346 gam (BL 40).
- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:
+ Số ma túy hoàn lại sau giám định là M1=0,2026 gam, M2=1,0720 gam.
+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 01 ống hút và 01 nỏ thủy tinh. Phần dân sự: không có.
Tại bản cáo trạng số 63 /CTr – VKS ngày 19/9/2023 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và bị cáo Đặng Ngọc Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thị D về tội Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 2 Điều 251, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thị D mức án từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù; giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đặng Ngọc Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt Đặng Ngọc Q mức án từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội D bản Cáo trạng. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và không tự bào chữa; các bị cáo nói lời sau cùng biết lỗi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Phước Long, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp. [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà các bị cáo thừa nhận: Do ham lời bất chính nên ngày 16/6/2023 tại quán game Đại Ý ở khu phố 7, phường Long Phước, thị xã Phước Long Nguyễn Thị D đã mua 750.000 đồng tiền ma túy của một người phụ nữ tên Huyền (không rõ nhân thân lai lịch) nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Sau đó tại đây Nguyễn Thị D đã có 02 lần bán ma túy cho 02 người; Cụ thể lần thứ nhất bán ma túy cho Đặng Ngọc Q với giá 200.000 đồng (Số ma túy Quý mua của D để sử dụng có khối lượng là 0,2544 gam loại Methamphetamine); Lần thứ hai bán ma túy cho Huỳnh Công Toàn với giá 150.000 đồng (Số ma túy Toàn mua của D Toàn đã sử dụng hết). Tổng số ma túy D tàng trữ để bán là 1,389 gam, loại Methamphetamine.
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo, người làm chứng có trong hồ sơ vụ án cũng như phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận hành vi bán ma túy cho nhiều người của bị cáo Nguyễn Thị D đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; hành vi tàng trữ 0,2544g Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Đặng Ngọc Q đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Như vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước đối với các bị cáo Nguyễn Thị D, Đặng Ngọc Q về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vẫn mua bán và sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội các bị cáo Nguyễn Thị D, Đặng Ngọc Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Do vậy, các bị cáo Nguyễn Thị D, Đặng Ngọc Q được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 và áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa nhận thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, không có kinh tế, nên Hội đồng xét xử không xử phạt bổ sung.
[6]. Đối với người phụ nữ tên Huyền (không rõ nhân thân lai lịch) là người bán ma túy cho D. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long tách riêng điều tra, xử lý sau là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không đề cập.
Đối với Huỳnh Công Toàn là đối tượng mua ma túy của D. Quá trình điều tra xác định D có bán ma túy cho Toàn và Toàn có mua ma túy của D nhưng sau khi mua được ma túy thì Toàn đã sử dụng hết cho nên không có căn cứ xử lý hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long bàn giao cho địa phương nơi cư trú xử lý theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[7] Về xử lý vật chứng:
+ Số ma túy hoàn lại sau giám định là M1=0,2026 gam, M2=1,0720 gam là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 01 ống hút và 01 nỏ thủy tinh là tang vật của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8]. Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa : Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử về tội danh đối với 02 bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Về mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Thị D là phù hợp quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo Đặng Ngọc Q là nghiêm khắc, chưa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nên không được chấp nhận.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Đặng Ngọc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2]. Về hình phạt:
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị D 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2023.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc Q 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2023.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[3] Về vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định là M1=0,2026 gam, M2=1,0720 gam trong 02 phong bì được phòng PC09 Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số 680M1 và 680M2 ngày 19/6/2023 + Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 01 ống hút và 01 nỏ thủy tinh.
Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0003808 ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phước Long.
[4]. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2023/HS-ST
Số hiệu: | 66/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về