Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 66/2023/HS-ST NGÀY 26/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, xét xử trực tuyến tại các điểm cầu. Điểm cầu Trung tâm tại Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương vụ án hình sự thụ lý số 59/2023/HSST ngày 03/8/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T, sinh năm 1995; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Khu NL 3, thị trấn TM, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Văn Tn và bà Bùi Thị D; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: chị Cao Thị B; Bị cáo có 03 con, lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2021 (năm 2021 sinh đôi),Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/QĐ-XPVPHC ngày 04/01/2016 của Công an huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Chấp hành xong ngày 15/01/2016.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 35/QĐ-XPVPHC ngày 30/5/2016 của Công an huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng về hành vi Tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Chấp hành xong ngày 28/6/2016.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/5/2023 đến ngày 17/5/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*Người làm chứng: Bà Lưu Thị H, sinh năm 1970 Bà H vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 15/5/2023, Nguyễn Thành T đang ở nhà bác ruột là ông Nguyễn VT ở xã TT, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thì nảy sinh ý định sử dụng trái phép chất ma túy nên đi nhờ xe của một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đến khu vực Tiền Trung, Phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương thì xuống và đi bộ đến khu vực thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách. Tại đây T vào quán uống nước ven đường gặp và hỏi mua của một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) 300.000 đồng tiền ma túy đá. Người đàn ông kia đồng ý và bảo T đi theo anh ta vào ngõ của nhà nghỉ Thiên Hương ở gần đó. Tài đưa người đàn ông 300.000 đồng, người này đưa lại cho T một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói ni lông nhỏ màu trắng kích thước khoảng 01cm x 02cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, T cầm và cất trong túi áo khoác màu đen bên trái đang mặc, người đàn ông kia bỏ đi. Đến 10 giờ 10 phút cùng ngày, T đi bộ ra hướng quốc lộ 37 được khoảng 30m tới gần nhà nghỉ Thiên Hương thì bị Công an xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác màu đen bên trái T đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói nilon nhỏ màu trắng kích thước 01cm x 02cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Công an xã Đồng Lạc đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, T trình bày mua ma túy về để sử dụng. Đến 16 giờ 25 phút ngày 15/5/2023, Công an xã Đồng Lạc bàn giao Nguyễn Thành T và hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách.

Tại Kết luận giám định số 263/KL-KTHS ngày 16/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng đươc niêm phong trong phong bì, gửi đến giám định khối lượng là 0,213g (không phẩy hai trăm mười ba gam) là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 65/CT-VKS- NS ngày 01/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thành T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 14 tháng đến 17 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 15/5/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,169 gam ma túy, loại Methamphetamine;

01 vỏ nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 10 phút ngày 15/5/2023, tại thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thành T có hành vi cất giấu trái phép 0,213 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo cất giấu trái phép 0,213 gam ma túy, loại Methamphetaime, mục đích để sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo bị cáo Nguyễn Thành T ra trước tòa án để xét xử với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Việc bị cáo cất giấu trái phép chất ma túy 0,213 gam ma túy loại Methamphetaime, mục sử dụng cho bản thân. Bị cáo biết ma túy đã có tác hại rất lớn đến sức khỏe và tính mạng của con người cũng như toàn xã hội. Nó không chỉ là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV - AIDS mà còn là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. [6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, giảm nhẹ, của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (đã xóa xử phạt vi phạm hành chính) nhưng bị cáo không rút ra bài học cho bản thân mà lại phạm tội tiếp nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Biện pháp tư pháp và vật chứng:

Đối với lượng ma túy 0,169 gam Methamphetamine được hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ ni lon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;

01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho T không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý là phù hợp pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.

2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/5/2023.

4. Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy: Lượng ma túy hoàn lại sau giám định 0,169gam Methamphetamine; 01 vỏ ni lon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 263/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

(Đặc điểm của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Sách).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2023/HS-ST

Số hiệu:66/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về