Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 65/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

 BẢN ÁN 65 /2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 06 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 04 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đồng Minh Đ; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 02/3/1987, tại thành phố C, tỉnh Quảng Ninh;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 9, khu 5A, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Họ tên bố: Đồng Văn Tr ; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Ng; Vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

+ Ngày 26/10/2006, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 30/4/2008, chấp hành xong bản án.

+ Ngày 29/7/2013, bị Công an thành phố Cẩm Phả xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích. Ngày 23/8/2013, chấp hành xong quyết định xử phạt.

+ Ngày 25/4/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 14/3/2016 chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 17/12/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên toà.

* Người chứng kiến:

- Ông Lương Tiến D- sinh năm: 1960; Nơi ĐKNKTT: Tổ 1, khu S, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Ông Phạm Văn Tr – sinh năm: 1962; Nơi ĐKNKTT: Tổ 4, khu N, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên Tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 10 phút ngày 17/12/2020, tại tổ 5, khu Đập Nước 1, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang Đồng Minh Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng. Thu giữ: trong túi áo khoác bên phải phía trước Đ đang mặc 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 điện thoại di động Itel kèm 01 sim.

Tại bản kết luận giám định số 73/KLGĐ ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 gói giấy bạc thu giữ của Đồng Minh Đ là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,14gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đồng Minh Đ khai nhận: bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2010, sau thời gian chấp hành xong hình tù bị cáo sử dụng lại ma túy, ma túy bị cáo dùng là Heroine. Khoảng 09 giờ 00 ngày 17/12/2020, bị cáo một mình đi đến khu vực chợ Độc Lập, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả tìm mua ma túy, đến nơi, bị cáo đã mua được 01 gói ma túy Heroine của một người không quen biết, giá 400.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu vào túi áo khoác bên phải phía trước của mình, rồi đi tìm chỗ để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang. Bị cáo nhận thức được hành vi mua ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật.

Người chứng kiến là ông Lương Tiến D và Phạm Văn Tr, vắng mặt tại phiên Tòa, nhưng trong quá trình điều tra đều có lời khai thể hiện nội dung: Hồi 10 giờ 10 phút ngày 17/12/2020, tại tổ 5, khu Đập Nước 1, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, các ông chứng kiến Công an thành phố Cẩm Phả thu giữ của bị cáo Đồng Minh Đ 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng, bị cáo khai là ma túy Heroine, bị cáo mua để sử dụng, ngoài ra bị cáo còn bị thu giữ 01 điện thoại di động Itel (Bl 43-44; 45-46).

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án ngoài kết luận giám định ma túy (BL 25) còn có các tài liệu khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 30, 31); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 33, 35); bản ảnh vật chứng (BL 28, 29); Biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của bị cáo (BL 34) các tài liệu này đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo, phù hợp lời khai của người chứng kiến.

Tại bản cáo trạng số 48/CT - VKSCP ngày 24/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Đồng Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đồng Minh Đ từ đến 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 17/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; ngoài ra có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát; khi nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đồng Minh Đ khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, phù hợp tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Kết luận giám định ma túy, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong vật chứng.

Trên cơ sở các chứng cứ trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 10 phút, ngày 17/12/2020, tại tổ 5, khu Đập Nước 1, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Đồng Minh Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 gam (không phảy một bốn gam) ma túy Heroine, mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang. Hành vi này của bị cáo Đồng Minh Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện làm cho người sử dụng phải lệ thuộc vào nó, ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng và là nguồn phát sinh tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội. Pháp luật Nhà nước ta xử lý nghiêm khắc đối với các tội về ma tuý, mục đích để ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với người sử dụng và biết được sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém, nên vẫn cố tình phạm tội. Hành vi của bị cáo góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự, trị an xã hội. Vì vậy cần xử lý cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải; bố bị cáo là ông Đồng Văn Trọng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, xác định là người có công với Cách mạng, nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngày 26/10/2006, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo đã chấp hành xong bản án vào ngày 30/4/2008; Ngày 29/7/2013, bị cáo bị Công an thành phố Cẩm Phả xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích, ngày 23/8/2013, chấp hành xong quyết định xử phạt; Ngày 25/4/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong bản án ngày 14/3/2016. Hội đồng xét xử xét thấy, đến ngày bị cáo phạm tội lần này, 02 bản án đã được xóa án tích và quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo coi như chưa bị xử phạt hành chính, nên xác định bị cáo có nhân thân xấu, chứ bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Đánh giá nhân thân của bị cáo thì thấy, bị cáo đã bị kết án 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội, Hội đồng xét xử xem xét yếu tố nhân thân này của bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel thu giữ của bị cáo, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với đối tượng Đ khai bán ma túy cho Đ, do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đồng Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Đồng Minh Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tịch thu tiêu huỷ: số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 73/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, model: it2171, imei 1: 357916105705087, imei 2: 357916105705095, kèm 01 sim và 01 pin, điện thoại đã qua sử dụng;

(Hiện trạng toàn bộ vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 104/BB- THA ngày 12/04/2021 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Đồng Minh Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 65/2021/HS-ST

Số hiệu:65/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về