Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 64/2022/HS-ST NGÀY 25/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; Mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 82/2022/TLST-HS ngày 23/8/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2022/QĐXXST-HS ngày 30/8/2022 đối với bị cáo:

Vàng Thị N; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1985 tại huyện NP, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản NC 2, xã S, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vàng Sáu C, đã chết và con bà: Vàng Thị M, đã chết; Bị cáo có chồng là Sùng A L, đã chết và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2021 (đã được ông Sùng A Sình sinh năm 1986, địa chỉ: Bản NC 2, xã S, huyện NP nhận làm con nuôi); Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 07/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 21/01/2020 chấp hành xong án phạt tù về sinh sống tại địa phương, đã đương nhiên xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2022 tại Công an huyện NP cho tới nay, có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Thúy An là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 10/5/2022, Vàng Thị N đang ở nhà tại bản NC 2, xã S, huyện NP thì có một người phụ nữ không quen biết đến nhà Vàng Thị N. Người đó đến hỏi N có mua Heroine không, N trả lời có mua. Người phụ nữ đó lấy từ trong túi đang đeo một gói ni lông màu trắng, bảo với N số heroine đó có giá 150.000 đồng. N đưa số tiền 100.000 đồng cho người phụ nữ đó, số tiền còn thiếu thì người phụ nữ đó cho N nợ. N cất giấu gói Heroine vào trong túi vải màu đen đeo trên người, còn người bán ma túy cầm tiền và bỏ đi khỏi nhà của N. Hồi 09 giờ 20 phút cùng ngày, N lấy gói Heroine ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Đồn biên phòng S và Công an xã S huyện NP bắt quả tang, đồng thời thu giữ tại tay trái của Vàng Thị N 01 gói ni lông màu trắng có chứa chất ma túy. N khai nhận đó là ma túy do N mua về để sử dụng cho bản thân. Vật chứng bị thu giữ gồm 01 gói ni lông màu trắng mở bên trong có chứa chất bột dạng nén màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 10/5/2022 Công an huyện NP đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất ma túy thu giữ được của Vàng Thị N, khối lượng vật chứng nghi Heroine là 3,12 gam.

Bản kết luận giám định số: 673/KL-KTHS, ngày 18/5/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng Thị N gửi đến giám định là chất ma túy. Loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 49/CT-VKSNP ngày 22/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị can Vàng Thị N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Vàng Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NP giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bị cáo Vàng Thị N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng Thị N mức án từ 36 tháng đến 40 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 3,01 gam Heroine là số ma túy đã hoàn lại sau giám định.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bà Lê Thị Thúy An là người bào chữa cho bị cáo Vàng Thị N nhất trí với tội danh và điều luật áp dụng. Cần xem xét bị cáo Vàng Thị N là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không được đi học, thực hiện hành vi phạm tội do nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, xử phạt cho bị cáo Vàng Thị N mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Đồng thời xem xét hoàn cảnh gia đình miễn áp dụng hình phạt bổ sung và án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát; Lời nói sau cùng, Vàng Thị N nhận phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 09 giờ 20 phút, ngày 10/5/2022, tại bản NC 2, xã S, huyện NP, Vàng Thị N đã bị tổ công tác Đồn biên phòng Si Pha Phìn phối hợp với Công an xã S, huyện NP bắt quả tang N đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,12 gam Heroine với mục đích là để sử dụng cho bản thân.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 10/5/2022; Kết luận giám định số: 673/KL-KTHS, ngày 18/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên. Bị cáo Vàng Thị N đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,12 gam Heroine. Vì vậy Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Vàng Thị N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý đặc biệt các chất ma tuý của Nhà nước và gây ảnh hưởng xấu an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo Vàng Thị N là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy tàng trữ, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo Vàng Thị N đã tiếp tay cho những kẻ mua bán trái phép chất ma túy, đi ngược lại với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giữ vững kỷ cương của pháp luật góp phần đẩy lùi tội phạm ma tuý và nhằm răn đe, phòng ngừa chung trong nhân dân.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Vàng Thị N từ nhỏ không được đi học, do không chịu rèn luyện bản thân và hiểu biết pháp luật hạn chế nên bị cáo đã sớm nghiện chất ma túy. Ngày 07/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 21/01/2020 chấp hành xong án phạt tù về sinh sống tại địa phương, đã đương nhiên xóa án tích.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét đề nghị và luận tội của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét đề nghị của người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, xử phạt cho bị cáo Vàng Thị N mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; Cần được xem xét để áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo Vàng Thị N là người nghiện ma túy, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Vàng Thị N khai nhận đã mua ma túy của 01 người phụ nữ tại bản NC 2, xã S, huyện NP. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh và xử lý đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo.

[8] Về vật chứng vụ án: gồm 3,01 gam Heroine là số ma túy đã hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Vàng Thị N không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[10] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: HĐXX xét thấy gia đình bị cáo Vàng Thị N là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51,Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố Vàng Thị N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Xử phạt bị cáo Vàng Thị N 36 (Mươi mươi sáu) tháng tù, kể từ ngày bắt: 10/5/2022.

3. Xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu hủy 3,01 gam Heroine là số ma túy đã hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ phong bì niêm phong cũ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện NP.

4. Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng Thị N.

5. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2022/HS-ST

Số hiệu:64/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về