Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2021/TL ST - HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1998 tại Hà Nội; Tên gọi khác: không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 1, thôn Quyết Tiến, xã VC, huyện HĐ, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 3/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Văn Th và bà: Nguyễn Thị M; Vợ con: chưa; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/8/2021. H đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Q, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 09 giờ 00 ngày 18/08/2021 Nguyễn Văn H mượn của anh Nguyễn Văn P sinh năm 1986 (là anh họ và ở cùng thôn với H) chiếc xe mô tô BKS: 29X5 -13129 đi đến khu vực cánh đồng thuộc xã Đắc Sở, huyện HĐ, Thành phố Hà Nội để gặp đối tượng tên Minh (H không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể) hỏi mua ma túy. H gặp Minh và nói “Anh để cho em gói 300” (nghĩa là bán cho H một lượng ma túy đá với giá 300.000đ) thì Minh đồng ý. Sau đó H đưa cho Minh 03 (ba) tờ tiền mệnh giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), Minh đưa lại cho H 01 (một) gói có kích thước (1x4) cm, bọc bên ngoài bằng băng dính màu đỏ trắng, bên trong là ống nhựa màu vàng chứa ma túy đá. H cầm gói ma túy bằng tay trái rồi điều khiển xe đi về. Khi đi đến cánh đồng khu bãi Mả Gie thuộc địa phận xã PC, huyện Q thì bị công an xã PC phối hợp cùng Đội CSĐT tội phạm kinh tế - ma túy Công an huyện Q kiểm hành chính. Do lo sợ nên H đã thả gói ma túy vừa mua được từ tay trái xuống đất, cách vị trí H đứng khoảng 20cm thì bị tổ công tác phát H, thu giữ, niêm P tang vật đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đưa H về trụ sở để làm rõ sự việc.

Vật chứng thu giữ :

- 01(một) điện thoại di động FPT màu vàng đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01(một) sim Viettel có số: 0374208660.

- 01(một) gói bằng băng dính màu đỏ trắng, kích thước (1x4)cm bên trong có một đoạn ống nhựa màu vàng chứa tinh thể màu trắng.

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen BKS: 29X5- 13129.

Tại bản Kết luận giám định số: 6445/KLGĐ-PC09 ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01(một) đoạn ống nhựa màu vàng có khối lượng: 0,284 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra cơ quan công an đã xác định được chiếc xe môtô BKS: 29X5-131.29 có số khung: RLHJC5227-CY794878, số máy: JC52E5350783 đăng ký mang tên Nguyễn Thị Vân sinh năm 1995, địa chỉ: thôn An Thọ, xã A K, huyện HĐ, Thành phố Hà Nội. Do không có nhu cầu sử dụng nên chị Vân đã cho anh P (là anh rể) sử dụng chiếc xe khoảng 01 năm nay. Chị có đơn đề nghị CQĐT xem xét trả lại chiếc xe này cho anh P. Do khi mượn xe của anh P, Nguyễn Văn H nói là để đi chợ nên anh P đã đồng ý. Xác định xe mô tô nêu trên không liên quan đến vụ án, do đó ngày 07/10/2021 Cơ quan CSĐT công an huyện Q đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả chiếc xe lại cho anh Nguyễn Văn P.

Đối với 01 điện thoại FPT đã qua sử dụng có lắp sim viettel là của Nguyễn Văn H mua để sử dụng vào mục đích liên lạc công việc, gia đình. Qua xác minh không có cuộc gọi, tin nhắn liên quan đến vụ án.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn H đã khai nhận gói ma túy bị thu giữ là ma túy tổng hợp dạng đá của H vừa mua được, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bản cáo trạng số 72/CT – VKSQO ngày 21 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng. Bị cáo không tranh luận gì và xin nhận lại chiếc điện thoại bị cơ quan công an thu giữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 đề nghị xử phạt Nguyễn Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng vì bị cáo là đối tượng ngH, kinh tế khó khăn.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã bị thu giữ.

+ 01(một) điện thoại di động FPT màu vàng đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp 01(một) sim không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã Th H đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo và không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã Th H đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 40 ngày 18 tháng 8 năm 2021 tại khu bãi Mả Gie, xã PC, huyện Q, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ 0,284 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Đội CSĐT tội phạm về kinh tế – ma túy công an huyện Q phối hợp với công an xã PC phát H bắt giữ.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Tệ nạn ma túy đang làm băng hoại đạo đức, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội khác. Nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo cũng nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Bị cáo khai không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ của nam thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[5]. Về vật chứng:

- Số ma túy bị thu giữ có khối lượng 0,284 gam loại Methamphetamine được đựng trong 01 đoạn ống nhựa mầu vàng, gói băng dính mầu đỏ trắng là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Sau khi lấy mẫu đi giám định, số vật chứng này được niêm P trong 01 P bì mầu trắng, tại các mép dán có chữ ký của bị cáo, giám định viên và cán bộ Công an xã PC, huyện Q.

- 01(một) điện thoại di động FPT màu vàng đen bên trong có lắp 01 sim điện thoại là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo xin được nhận lại chiếc điện thoại nên trả lại cho bị cáo.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định, đựng trong 01 đoạn ống nhựa màu vàng gói băng dính màu đỏ trắng được niêm P trong 01 (một) P bì mầu trắng, mặt sau tại các mép dán có chữ ký của bị cáo, giám định viên và Công an xã PC, huyện Q, Thành phố Hà Nội.

- Trả lại bị cáo 01(một) điện thoại di động FPT màu vàng đen bên trong có lắp 01 sim điện thoại.

H vật chứng đang lưu giữ tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tình trạng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 06/2022/THA ngày 26/11/2021 giữa Công an huyện Q và Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2021/HS-ST

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quốc Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về