TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 63/2022/HS-ST NGÀY 08/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 56/2022/TLST-HS ngày 04/11/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 359/2022/QĐXXST-HS ngày 16/11/2022, đối với các bị cáo:
1/ Huỳnh Minh T, sinh năm 1982, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú: Số X đường Đoàn Văn Bơ, Phường 10, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Số X1, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Huỳnh Văn L và bà Chu Thị N; có vợ Nguyễn Thị L và có 02 con (lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2021);
Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân:
- Ngày 17/11/2004, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “cướp tài sản”, theo Bản án số 1962/HSST. Huỳnh Minh T chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2006;
- Ngày 25/5/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “mua bán trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 139/2010/HSST. Huỳnh Minh T chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2015 và đã nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng, nộp phạt 15.000.000 đồng theo quy định.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2022 đến nay (có mặt).
2/ Nguyễn Thị L, sinh năm 1988, tại tỉnh tỉnh Đồng Nai; Đăng ký thường tú: Số X2 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 21, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Số X1, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không (ở nhà nội trợ);
Trình độ văn hóa: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Cao Đài; Giới tính: Nữ; Con ông Nguyễn Văn T và bà Mai Thị L; có chồng là Huỳnh Minh T và có 02 con (lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2021);
Tiền án, tiền sự, nhân thân: không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
3/ Hồ Thanh T, sinh năm 1997, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú và chỗ ở: Số 470/7/18 khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Giao hàng; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Hồ Văn H và bà Hà Thị Kim C; vợ, con: không;
Tiền án: không Tiền sự: Ngày 02/6/2018, bị Công an thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng, do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, theo Quyết định số 0022370/QĐ-XPVPHC. Đến nay Hồ Thanh T chưa nộp phạt theo quy định.
Nhân thân:
- Ngày 01/9/2018, bị Ủy ban nhân dân thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng, theo Quyết định số 425/QĐ-UBND. Đến ngày 15/9/2018, Hồ Thanh T thực hiện xong Quyết định số 425/QĐ-UBND.
- Ngày 18/10/2018, bị Ủy ban nhân dân thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, theo Quyết định số 465/QĐ-UBND. Đến ngày 18/01/2019, Hồ Thanh T thực hiện xong Quyết định số 465/QĐ-UBND.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2022 đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18h30’ ngày 04/7/2022, Hồ Thanh T gọi điện thoại cho Nguyễn Thị L vào số 076X519 để hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng; L đồng ý và hẹn T đến hẻm 2056, đường Huỳnh Tấn Phát, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè để giao nhận ma túy và tiền. Sau khi thống nhất, T điều khiển xe môtô biển số 59Z1-X chở theo Trần Thị Thanh V đến gặp L. Khi gặp, T đưa cho L 200.000 đồng, L đưa T một cái khẩu trang màu xanh được cuộn lại bên trong có 01 gói ma túy đá. Mua được ma túy, T bỏ vào túi đeo màu đen đang đeo trên người. Đến khoảng 19h40’ cùng ngày, khi T điều khiển xe chở V đến trước nhà số 1760, đường Huỳnh Tấn Phát, khu phố 5, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang.
Khoảng 20h15’ ngày 04/7/2022, Huỳnh Minh T đang điều khiển xe môtô biển số 51N4-X mang theo 01 gói ma túy đi bán, khi đến trước số nhà số 98, đường Đào Tông Nguyên, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang.
Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L, tại nhà số 76/26B, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, thu giữ: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu; 01 chiếc cân tiểu ly màu đen; 02 cây kéo bằng kim loại; 09 ống thủy tinh; 05 ống hút bằng nhựa; 10 vỏ bao nylon; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu trắng.
Tại cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L khai nhận là vợ chồng, để có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, từ tháng 5/2022 T và L đã cùng nhau đi mua ma túy về chia nhỏ để bán cho những người khác. Để có ma túy bán T là người trực tiếp đi mua. T thường đến khu vực gần quán ăn số 662, đường Vĩnh Khánh, phường 10, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của một người đàn ông tên Cu H (không rõ nhân thân, lai lịch). 01 gói ma túy mà L bán cho Tú, 01 gói ma túy T mang đi bán thì bị bắt cũng như 02 gói ma túy bị thu giữ tại nhà là do T mua của Cu H vào khoảng 12 giờ ngày 04/7/2022 với giá 900.000 đồng.
Trong quá trình hoạt động mua bán trái phép chất ma túy, T đã trực tiếp bán ma túy cho Trần Ngọc Đ và Lê Thị Ánh N 04 lần, mỗi lần 01 gói với giá 300.000 đồng tại hẻm gần nhà của Điền và N (hẻm 2266/14/33/11, đường Huỳnh Tấn Phát, ấp 4, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè); bán ma túy đá cho Hùng (không rõ nhân thân, lai lịch) 03 lần, mỗi lần 01 gói với giá 200.000 đồng tại đường Đào Tông Nguyên, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè. L đã trực tiếp bán ma túy cho Trần Ngọc Đ và Lê Thị Ánh N 02-03 lần, mỗi lần là 01 gói với giá 300.000 đồng tại hẻm gần nhà của Điền và N; bán cho Huỳnh Thanh T 02 lần, mỗi lần 01 gói với giá 250.000 đồng, lần đầu vào ngày 02/7/2022 tại hẻm 115, phường Phú Mỹ, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, lần sau vào ngày 04/7/2022 tại đường Đào Tông Nguyên, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè. Ngoài ra, T và L cùng đi bán cho Huỳnh Thanh T 01 lần/01 gói với giá 800.000 đồng vào tối ngày 02/7/2022, tại hẻm 115, phường Phú Mỹ, Quận 7; bán cho Điền và N 04 lần, mỗi lần 01 gói với giá 300.000 đồng tại đường Đào Tông Nguyên, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè và tại hẻm gần nhà của Điền, N.
Tổng số tiền thu lợi từ việc bán ma túy của T và L là từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Kết luận giám định số 3905/KL-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Hồ Thanh T và hình dấu Công an thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2752g, loại Mathamphetamine.
Kết luận giám định số 3906/KL-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Minh T và hình dấu Công an thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5339g, loại Mathamphetamine.
Kết luận giám định số 3907/KL-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Minh T và hình dấu Công an thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,9222g, loại Mathamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 60/CT-VKS-NB ngày 31/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Huỳnh Minh T, Nguyễn Thị L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Truy tố bị cáo Hồ Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận:
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo cáo Huỳnh Minh T, Nguyễn Thị L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Hồ Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Huỳnh Minh T từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 251; điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hồ Thanh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tịch thu tiêu hủy tinh thể không màu có tổng khối lượng 3,5422g; 01 cái khẩu trang màu xanh; 01 cái khẩu trang màu trắng; 01 cái túi đeo màu đen; 01 cái cân tiểu ly màu đen; 02 chiếc kéo bằng kim loại; 09 ống thủy tinh; 05 ống hút bằng nhựa; 10 vỏ bao nylon; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, màu xám; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng. Trả lại cho bị cáo Hồ Thanh T 01 chiếc xe môtô biển số 59Z1-X. Giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè tiếp tục tạm giữ chiếc xe môtô biển số 51N4-X. Khi nào hết thời hạn đăng báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước. Buộc bị cáo Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L liên đới nộp lại số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy là 1.500.000 đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước (mỗi bị cáo phỉ nộp lại 750.000 đồng).
Các bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 18h30’ ngày 04/7/2022, tại hẻm 2056, đường Huỳnh Tấn Phát, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị L đã bán cho Hồ Thanh T 01 gói ma túy giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Hồ Thanh T đi về nhà, khi đi đến trước số nhà 1760, đường Huỳnh Tấn Phát, khu phố 5, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong người Hồ Thanh T 01 gói ma túy có khối lượng 0,2752 gam, loại Methamphetamine.
Khoảng 20h15’ ngày 04/7/2022, tại trước nhà số 98, đường Đào Tông Nguyên, khu phố 7, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Huỳnh Minh T đang điều khiển xe môtô biển số 51N4-X đi bán ma túy thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong người Huỳnh Minh T 0,5339 gam ma túy, loại Mathamphetamine.
Tiến hành khám xét nơi ở của Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L tại số 76/26B, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ 2,9222 gam ma túy, loại Mathamphetamine. Đây là số ma túy Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L mua mục đích để bán nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ.
Ngoài ra Huỳnh Minh T đã bán ma túy cho Trần Ngọc Đ và Lê Thị Ánh N 04 lần, mỗi lần 01 gói với giá 300.000 đồng; bán cho Hùng (không rõ nhân thân, lai lịch) 03 lần, mỗi lần 01 gói với giá 200.000 đồng. Nguyễn Thị L đã đã bán cho Trần Ngọc Đ và Lê Thị Ánh N 02 đến 03 lần, mỗi lần là 01 gói với giá 300.000 đồng; bán cho Huỳnh Thanh T 02 lần, mỗi lần 01 gói với giá 250.000 đồng. Nguyễn Thị L và Huỳnh Minh T cùng nhau đi bán cho Huỳnh Thanh T 01 lần/01 gói với giá 800.000 đồng; bán cho Điền và N 04 lần, mỗi lần 01 gói với giá 300.000 đồng.
Như vậy, hành vi của bị cáo Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều người nên đã phạm vào điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hồ Thanh T đã có hành vi mua ma túy mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt nên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L phạm tội thuộc loại rất nghiêm trọng. Bị cáo Hồ Thanh T phạm tội thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đều gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ ma túy bị nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo Huỳnh Minh T, Nguyễn Thị L do hám lợi bất chính, coi thường pháp luật; Bị cáo Hồ Thanh T thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, hành vi phạm tội của bị cáo T và bị cáo L tương đương nhau, tuy nhiên bị cáo T là người trực tiếp đi mua ma túy về cùng bị cáo L chia nhỏ để bán. Bị cáo Huỳnh Minh T đã nhiều lần bị đưa ra xét xử, mặc dầu đã được xóa án tích. Bị cáo Hồ Thanh T đã nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, như vậy, bị cáo T và bị cáo T có nhân thân xấu nên cần xem xét khi lượng hình.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn. Đối với bị cáo Nguyễn Thị L khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang mang thai.
[7] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.
[8] Về xử lý vật chứng:
- Khối lượng ma túy Methamphetamine thu giữ của các bị cáo, sau khi lấy mẫu vật giám định, khối lượng còn lại 3,5422 gam là vật cấm tàng trữ; 01 cái khẩu trang màu xanh; 01 cái khẩu trang màu trắng; 01 cái túi đeo màu đen; 01 cái cân tiểu ly màu đen; 02 chiếc keo bằng kim loại; 09 ống thủy tinh; 05 ống hút bằng nhựa; 10 vỏ bao nylon; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh thu giữ của Hồ Thanh T; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, màu xám thu giữ của Nguyễn Thị L; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng thu giữ của Huỳnh Minh T, các bị cáo sử dụng liên lạc trong việc mua bán T phép chất ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
- 01 chiếc xe môtô biển số 59Z1-X bị cáo Hồ Thanh T sử dụng làm phương tiện đi lại, không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.
- 01 chiếc xe môtô biển số 51N4-X bị cáo Huỳnh Minh T sử dụng làm phương tiện đi mua, bán ma túy, là phương tiện phạm tội nhưng chưa xác định được chủ sở hữu nên cần giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo tìm chủ sở hữu. Hết thời hạn đăng đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
- Số tiền bị cáo Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L thu lợi trong toàn bộ quá trình mua bán ma túy từ tháng 5/2022 đến nay, các bị cáo không nhớ số tiền chính xác, các bị cáo xác định thu lợi khoảng từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Vì vậy, cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho các bị cáo để xác định số tiền cần truy thu để sung quỹ nhà nước là 1.500.000 đồng.
[8] Đối với chị Trần Thị Thanh Vy, là người đi cùng bị cáo Hồ Thanh T nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T nên không phạm tội.
[9] Đối với Trần Ngọc Đ, Lê Thị Ánh N, Huỳnh Thanh T và Huỳnh Kim Yến tại thời điểm thử nước tiểu kết quả dương tính với chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã bàn giao cho Công an thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè và Công an xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè xử lý theo quy định.
[10] Đối với người bán ma túy cho Huỳnh Minh T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
[11] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Minh T, Nguyễn Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Tuyên bố: Bị cáo Hồ Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/7/2022.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án phạt tù.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Hồ Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/7/2022.
- Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy: Tinh thể không màu có khối lượng 0,2355g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra (ký hiệu 817/22 Nhà Bè); Tinh thể không màu có khối lượng 0,4750g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra (ký hiệu 818/22 Nhà Bè); Tinh thể không màu có khối lượng 2,8317g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra (ký hiệu 819/22 Nhà Bè); 01 khẩu trang màu xanh và 01 khẩu trang màu trắng, đã qua sử dụng; 01 cái túi đeo màu đen, đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly, màu đen, bên ngoài có ghi dòng chứ MADE IN CHINA, đã qua sử dụng;
02 cái kéo bằng kim loại, đã qua sử dụng; 09 ống thủy tinh; 05 ống hút bằng nhựa; 10 vỏ bao nylon; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xám, số Imei: 358334083023664, phía trước màn hình và phía sau điện thoại bị bể, hư hỏng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu xanh, số Imei: 869563004346499, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu IPHONE, màu trắng, số Imei: 013419006147406, đã qua sử dụng.
+ Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 51N4-X, nhãn hiệu Click, số máy: JF18E-0058907, số khung: RLHJF1801Y-358992, đã qua sử dụng. Hết thời 01 năm kể từ ngày đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
+ Trả lại cho bị cáo Hồ Thanh T 01 xe mô tô biển số 59Z1-X, nhãn hiệu YAMAHA, màu đen, số máy: G3D4E595805, số khung: 0610HY570675, đã qua sử dụng.
(Toàn bộ bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2022-NK003 ngày 01/11/2022).
+ Truy thu 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Huỳnh Minh T và Nguyễn Thị L (mỗi bị cáo 750.000 đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.
- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Huỳnh Minh T, Nguyễn Thị L, Hồ Thanh T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2022/HS-ST
Số hiệu: | 63/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về