Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2020/HSST, ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/HS-QĐ ngày 30/3/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn V - Sinh ngày: 18/01/1988; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố Đ, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 02/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Nguyễn Văn H - Đã chết; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T -Sinh năm: 1954; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Theo danh chỉ bản số 96 ngày 06 tháng 01 năm 2021. Tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 17/3/2015, Công an phường Thượng Đình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chưa nộp tiền phạt; Tiền án: Có 02 (hai) tiền án chưa được xóa án tích, Bản án số 216/2015/HSST ngày 25/8/2015 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, TP Hà Nội xử phạt Nguyễn Văn V 16 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt và ra trại ngày 10/9/2016; Bản án số 218/2017/HSST, ngày 30/11/2017, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm xử phạt Nguyễn Văn V 33 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù và ra trại ngày 27/5/2020. Bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2021. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 - công an TP Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 18 giờ 40 phút ngày 01/01/2021, tại Cầu Thăng Long, Tân Xuân, TDP Nhật Tảo 4, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, tổ công tác Công an phường Đông Ngạc làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đưa đối tượng cùng vật chứng về trụ sở công an phường Đông Ngạc để điều tra, làm rõ.

Vật chứng:

Thu giữ của Nguyễn Văn V (BL 30):

- 01 (một) túi ni lông màu trắng kích thước khoảng 4x4cm bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 (một) điện thoại di động Nokia 6700 màu vàng, lắp số thuê bao 0877022049;

- 01 (một) xe máy Honda Winer màu đen, BKS: 29L5-31816; SM: KC26E1052952, SK: RLHKC2606GY031610.

Ngày 02/01/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Bắc Từ Liêm ra quyết định trưng cầu giám định số 78, trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội đối với số ma túy đã thu giữ được của Nguyễn Văn V. (BL 32) Bản kết luận giám định số 366A/KLGĐ- PC09 ngày 08/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 2,094 gam”. (BL 32)

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 18 giờ 15 ngày 01/01/2021, Nguyễn Văn V điều khiển xe máy BKS: 29L5-31816 từ nhà đến khu vực đường 5 mét thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, TP Hà Nội gặp một người đàn ông (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) để về sử dụng. Sau khi mua được ma túy đá, Nguyễn Văn V cất giấu ma túy đá ở túi quần sau bên phải và điều khiển xe máy về khu vực đường Tân Xuân, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội tìm chỗ để sử dụng ma túy.

Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, khi V đi đến lối lên tầng 2 cầu Thăng Long thuộc TDP Nhật Tảo 4, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội thì bị tổ công tác công an phường Đông Ngạc bắt quả tang V tàng trữ trái phép ma túy trong túi quần sau bên phải và thu giữ của V: 01 túi nilong kích thước 4x4cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, tại chỗ V khai nhận là ma túy đá. Sau đó, tổ công tác đưa các đối tượng về trụ sở công an phường để làm rõ sự việc trên.

Tại cơ quan điều tra, Vinh khai nhận hành vi phạm tội như trên và khai nhận V đã mượn xe máy Honda Winner BKS: 29L5-31816 (SM: KC26E1052952, SK: RLHKC2606GY031610) của anh Nguyễn Duy Khang (SN: 1996; HKTT: Kim Chung, Đông Anh, Hà Nội) làm phương tiện đi lại.

Tại cơ quan điều tra, anh Khang khai quá trình sử dụng xe anh Khang đã làm rơi BKS: 29S1-63273 của xe Honda Winner. Đến 20/12/2020, anh Khang nhặt được một BKS: 29L5-31816 và mang về lắp vào xe để sử dụng. Ngày 01/01/2021, anh Khang cho V mượn xe nhưng không biết V sử dụng xe đi mua ma túy. Xe máy trên anh Khang mua lại của anh Phan Hữu Hòa (SN: 1983; HKTT: Võng La, Đông Anh, Hà Nội), tra cứu xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 02/02/2021, cơ quan CSĐT - Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 16, trao trả chiếc xe máy Honda Winner màu đen SM: KC26E1052952, SK: RLHKC2606GY031610 cho anh Nguyễn Duy Khang. Anh Khang đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì. (BL 90-105; BL 109; 111).

Đối với chiếc biển kiểm soát 29L5-31816, quá trình xác minh xác định chiếc xe Honda Wave màu đen xám, SM: JA38E0379477; SK: RLHJA3812GY174048 đăng kí biển kiểm soát xe trên, chủ xe là ông Đặng Văn Lành (SN: 1961; HKTT: Nhật Tảo, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, ông Đặng Văn Lành khai ông Lành mua chiếc xe Honda Wave màu đen xám trên từ ngày 08/10/2018 làm phương tiện đi lại nhưng giữa tháng 12/2020 thì làm rơi mất BKS: 29L5-31816 hiện chiếc xe ông Lành vẫn đang quản lý ở nhà xe. Qua tra cứu xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng (BL84-89).

Ngày 02/02/2021, cơ quan CSĐT - Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 15, trao trả 01 biển kiểm soát 29L5-31816 cho ông Đặng Văn Lành (BL 110; 112).

Đối với hành vi Nguyễn Duy Khang gắn biển số không đúng với giấy đăng ký xe nên ngày 02/02/2021, Cơ quan CSĐT- Công an quận Bắc Từ Liêm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34/QĐ-GQXP về hành vi điều khiển xe gắn biển số không đúng với giấy đăng ký xe (BL 106-108).

Tại Cáo trạng số 47/CT-VKSBTL, ngày 19/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V mức án từ 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù đến 6 (sáu) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong bên trong chứa ma túy đã giám định bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Văn V, cán bộ Công an phường và giám định viên;

+ Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Nokia 6700 màu vàng, lắp số thuê bao 0877022049.

+ Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và vật chứng được thu giữ cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 40 phút ngày 01/01/2021 tại Cầu Thăng Long, Tân Xuân, TDP Nhật Tảo 4, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, tổ công tác Công an phường Đông Ngạc đã bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn V đang tàng trữ trái phép 2,094 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích, tại bản án số 218/2017/HSST, ngày 30/11/2017 của TAND quận Bắc Từ Liêm xác định bị cáo tái phạm nên Bản cáo trạng số 47/CT-VKSBTL, ngày 19/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]Xét tính chất hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm sức khoẻ của con người; hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và là con đường dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV, ADIS. Bản thân bị cáo là thanh niên có sức khỏe, nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là pháp luật nghiêm cấm, nhưng do ăn chơi đua đòi, bị cáo coi thường pháp luật và thực hiện hành vi phạm tội. Nhân thân bị cáo đã có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; Hai tiền án chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm và đã bị định khung hình phạt quy đinh tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần phải ra một bản án phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

- Về Nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

- Vật chứng:

+ Đối với 01 (một) phong bì được niêm phong bên trong chứa ma túy đã giám định bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Văn V, cán bộ Công an phường và giám định viên là vật cấm lưu hành. Vì vậy cho tịch thu tiêu hủy;

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động Nokia 6700 màu vàng, lắp số thuê bao 0877022049, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm 0 Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Áp dụng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn V 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2021.

2. Vật chứng của vụ án::

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong bên trong chứa ma túy đã giám định bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Văn V, cán bộ Công an phường và giám định viên.

+ Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Nokia 6700 màu vàng, lắp số thuê bao 0877022049.

(Vật chứng trên được xử lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 111/21, ngày 25 tháng 3 năm 2021 giữa Cơ quan CSĐT công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về