Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 62/2022/HS-ST NGÀY 25/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Np, tỉnh Điên Biên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Giàng A D, sinh năm 1991 tại huyện T, tỉnh Điện Biên; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Bản L, xã PT, huyện Np, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giàng A Chang (đã chết) và con bà: Thào Thị De, sinh năm 1973 ; Bị cáo có vợ là Lý Thị Sang, sinh năm 1995 và 05 người con;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2022 tại Công an huyện Np cho tới nay, có mặt.

Người bào chữa: Bà Lê Thị Xuân - Là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 26/5/2022, Giàng A D cầm theo số tiền 300.000 đồng một mình đón xe khách từ nhà ở bản L, xã PT, huyện Np đến km45 xã Phìn Hồ, huyện Np để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi Giàng A D đi đến km 45 xã Phìn Hồ, D xuống xe khách đi bộ lên khu vực ngã 3 bản Mạy Hốc, xã Phìn Hồ thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi không biết họ tên, địa chỉ ở đâu. Khi gặp người đàn ông hỏi D: Anh có mua ma túy sử dụng không, D trả lời: Em cũng sử dụng ma túy, anh có thì bán cho 200.000 đồng Heroine, rồi D lấy 200.000 đồng từ trong túi quần bên phải đang mặc đưa cho người đàn ông. Ông ta nhận tiền rồi đưa cho D01 gói Heroine và 01 viên nén màu hồng, rồi nói: Gói Heroine thì bán, còn viên hồng cho không lấy tiền. Mua được ma túy D cất giấu số ma túy vào túi quần bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ quay về hướng km45 xã Phìn Hồ đón xe khách về nhà. Còn người đàn ông đã bán ma túy cho D không rõ đi đâu làm gì. Khi về đến nhà D lấy gói Heroine ra dùng tay bẻ thành 3 cục nhỏ rồi lấy giấy ni lông màu trắng gói lại thành 3 gói. Sau đó D lấy 01 gói Heroine ra dùng móng tay cấu một ít để sử dụng bằng hình thức hít, phần còn lại gói lại như cũ. Sử dụng xong D cất 03 gói Heroine và 01 viên nén màu hồng vào túi quần bên phải. Khoảng 10 giờ ngày 02/6/2022 D đang nằm trong buồng ngủ thì có một người đàn ông dân tộc Mông đến hỏi mua Heroine nhưng D nói D không có nên ông ta ngồi ở bếp hút thuốc lào.

Hồi 10 giờ 20 phút cùng ngày 02/6/2022 tổ công tác Công an huyện Np đến nhà D nên người đàn ông đó đã bỏ chạy ra ngoài. Sau đó tổ công tác đã giải thích cho D có đồ vật tài liệu gì vi phạm pháp luật thì tự nguyện giao nộp, Giàng A D đã lấy trong túi quần bên phải đang mặc ra 03 gói Heroine được gói bằng ni lông màu trắng và 01 viên hồng là ma túy tổng hợp được gói bằng túi ni lông màu đen cất giấu trong túi quần bên phải ra giao nộp cho tổ công tác Công an huyện Np. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng vụ án.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ma túy và lấy mẫu giám định ngày 03/6/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Np cân xác định khối lượng các vật chứng thu giữ của Giàng A D, gói vật chứng nghi Heroine có khối lượng là 0,39 gam và gói vật chứng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng là 0,09 gam.

Kết luận giám định số: 759/KL-KTHS ngày 10/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng A D gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine;

- Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng A D gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Sau khi giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã hoàn lại gồm 0,37 gam Heroine và 0,05 gam Methamphetamine.

Cáo trạng số 48/CT-VKSNP ngày 18/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Np truy tố bị can Giàng A D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Giàng A D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội D bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Np đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Np giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội D bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Np đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Giàng A D từ 14 tháng đến 17 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vật chứng vụ án: Gồm 0,37 gam Heroine và 0,05 gam Methamphetamine hoàn lại sau khi giám định cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bà Lê Thị Xuân là người bào chữa cho bị cáo Giàng A D cho rằng về tội danh và điều luật áp dụng bà Xuân không có ý kiến gì. Tuy nhiên cần xem xét bị cáo Giàng A D là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thực hiện hành vi phạm tội do nhận thức pháp luật còn hạn chế. Giàng A D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, xử phạt cho bị cáo Giàng A D mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Đồng thời xem xét hoàn cảnh gia đình miễn áp dụng hình phạt bổ sung và án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến gì, không bổ sung gì luận cứ bào chữa; Lời nói sau cùng, Giàng A D nhận phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thay như sau:

[1] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Giàng A D thừa nhận tàng trữ trái phép: 0,39 gam Heroine và 0,09 Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 03/6/2022 và kết luận giám định số 759/KL- KTHS, ngày 10/6/2022 của Phòng giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 40 phút, ngày 02/6/2022. Do đó, hành vi của Giàng A D tàng trữ trái phép 02 chất ma túy khác nhau là 0,39 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine, căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ về tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thì tổng khối lượng ma túy của Giàng A D là 0,48 gam với mục đích để sử dụng. Như vậy hành vi của bị cáo D đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy với lỗi cố ý. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Giàng A D đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã gây ra cho xã hội.

[2] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm minh đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, nhằm sau này trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài hình phạt chính, qua xác minh thì bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo Giàng A D khai nhận đã mua ma túy của người đàn ông không quen biết tại khu vực bản Mạy Hốc, xã Phìn Hồ, huyện Np, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh nên không có cơ sở để xác minh và xử lý đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Giàng A D.

[3] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo Giàng A D là người nghiện ma túy, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Np và người bào chữa cho bị cáo là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

[5] Về vật chứng: gồm 0,37 gam Heroine và 0,05 gam Methamphetamine hoàn lại sau khi giám định cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo Giàng A D thuộc dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử xem xét miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố Giàng A D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng A D 15 (Mười lăm) tháng tù, kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 02/6/2022.

3. Vật chứng vụ án: Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,37 gam Heroine và 0,05 gam Methamphetamine hoàn lại sau khi giám định, cùng toàn bộ phong bì niêm phong cũ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Np.

4. về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng A D.

5. Quyền kháng cáo: Báo bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.s

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2022/HS-ST

Số hiệu:62/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về