TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Z, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 62/2022/HS-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Z mở phiên tòa công khai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 43/HSST ngày 26 tháng 01 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Võ Minh T, sinh năm 1995, tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKNKTT: F6/19 Ấp 6, xã Lê Minh X, huyện BC, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Võ Thị Thùy Tr; Tiền án, Tiền sự: không; Nhân thân: Bản án số 395/2011/HSST ngày 16 tháng 12 năm 2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội: “Hiếp dâm trẻ em”. (Chấp hành xong hình phạt ngày 29 tháng 12 năm 2016 và chấp hành xong án phí của bản án ngày 04/7/2012); Quyết định khởi tố bị can số 186 ngày 11 tháng 3 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Z về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11 tháng 01 năm 2021 tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Z phối hợp với Công an phường VPh trong khi tuần tra tại khu vực trước nhà số 252 đường 2/4, phường VP, thành phố Z phát hiện Nguyễn Võ Minh T có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân để kiểm tra. T không xuất trình được và tự lấy từ túi áo khoác bên trái ra giao nộp 01 gói giấy vệ sinh màu trắng, bên trong chứa 05 viên nén hình chữ nhật, màu nâu giao nộp và khai nhận đó là ma túy “thuốc lắc” của Trí cất giấu để sử dụng.
Quá trình điều tra T khai nhận: vào khoảng 20 giờ 15 phút, ngày 11 tháng 01 năm 2021, thông qua mạng xã hội Zalo Trí đã liên lạc với một thanh niên tên “Lượng” (không xác định lai lịch) hỏi mua 05 viên ma túy “thuốc lắc” với giá 1.500.000đồng để sử dụng và Lượng hẹn giao ma túy cho T ở khu vực Cồn Dê, thành phố Z. Khi T đến Lượng đưa cho T một gói giấy vệ sinh màu trắng, T mở ra xem thì thấy bên trong có chứa 05 viên ma túy “Thuốc lắc” màu nâu hình chữ nhật. Sau khi có ma túy, T bỏ vào túi áo khoác bên trái rồi đi bộ đến khu vực trước nhà số 252 đường 2/4 phường VP, thành phố Z thì bị tổ công tác phát hiện bắt giữ.
Tại bản kết luận giám định số 82/GĐTP/2021 ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Các viên nén màu nâu trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy loại MDMA, có tổng khối lượng 2,3346g (Hai phẩy ba ba bốn sáu gam).
Cáo trạng số 261A/CT-VKS-NT ngày 11 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z truy tố Nguyễn Võ Minh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Võ Minh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được Hội đồng xét xử thẩm vấn công khai. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Võ Minh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Vật chứng vụ án, án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.
[2] Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với tài liệu biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại khu vực trước nhà số 252 đường 2/4 phường VP, thành phố Z, Nguyễn Võ Minh T đã có hành vi tàng trữ 2,3346g ma túy loại MDMA nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 261A/CT-VKS-NT ngày 11 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Z đã truy tố bị cáo Nguyễn Võ Minh T là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn của xã hội, đồng thời là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét vai trò tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu và hiện đang bị điều tra, truy tố về hành vi phạm tội khác nên cần phải xử lý nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Đối với nguồn gốc ma túy mà bị cáo đã mua của một đối tượng tên “Lượng” (chưa xác định nhân thân, lai lịch), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang đang tiếp tục xác minh làm rõ, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
[4] Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Z đã thu giữ:
- 01 (Một) phong bì giấy được niêm phong dán kín, một mặt ghi chữ: “Hoàn lại mẫu sau giám định ký hiệu A” có khối lượng 2,0874g; một mặt có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa” vật chứng cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- 01(Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đỏ sử dụng số thuê bao: 0396.908.826 (máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong) là tài sản cá nhân của bị cáo Nguyễn Võ Minh T nên trả lại cho bị cáo T.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 01 năm 2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z).
[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Võ Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Võ Minh T.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Võ Minh T 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam đi thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì giấy được niêm phong dán kín, một mặt ghi chữ: “Hoàn lại mẫu sau giám định ký hiệu A” có khối lượng 2,0874g; một mặt có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa”.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Võ Minh T: 01(Một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đỏ sử dụng số thuê bao: 0396.908.826 (máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 01 năm 2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Z và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Z).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 - Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Võ Minh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2022/HS-ST
Số hiệu: | 62/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về