Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 9 năm 2022, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2022, trong đó:

- Điểm cầu trung tâm: Số 27 đường T, Phường A, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Trụ sở Toà án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Điểm cầu thành phần: Số 47 đường T, Phường A, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (Phòng xét xử trực tuyến – Nhà tạm giữ Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

Đối với bị cáo:

Lê Ngọc Bảo C; sinh năm: 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Tân M, khu phố P, phường T, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: / (không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn T (chết) và bà: Hồ Thị H; tiền án: Không; tiền sự: 01 (ngày 22/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng tại Quyết định số 188/2020/QĐ-TA); nhân thân: Ngày 04/7/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 9 xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 80/2019/HSST (đã xóa án tích); bị bắt giữ ngày: 26/4/2022. (Bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Bà Lê Thị H1 – Sinh năm: 1978 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện N, tỉnh Bình Định.

2/Ông Nguyễn Đình P – Sinh năm: 1997 (vắng mặt).

Địa chỉ: Đường Nguyễn Thị T, phường Bình T, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/Bùi Tấn L – Sinh năm: 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Đường Mạc V, Phường N, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần:

Người tiến hành tố tụng:

1/Ông Nguyễn Tuấn A – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 10.

2/Bà Nguyễn Hoàng Trúc L – Thư ký Tòa án nhân dân Quận 10.

Người tham gia tố tụng khác:

1/Bà Nguyễn Anh T - Cán bộ thuộc Cơ quan Quản lý tạm giữ, tạm giam – Công an Quận 10.

2/Ông Đặng Trọng P - Chiến sĩ thuộc Cơ quan Quản lý tạm giữ, tạm giam – Công an Quận 10.

3/Ông Lê Thành Huỳnh Đ - Chiến sĩ thuộc Cơ quan Quản lý tạm giữ, tạm giam – Công an Quận 10.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 26/4/2022, tại trước nhà số 470 đường Sư Vạn Hạnh, Phường 9, Quận 10, Tổ tuần tra Công an Quận 10 phát hiện Bùi Tấn L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 51K2-X chở Lê Ngọc Bảo C ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn, nên mời về trụ sở Công an Phường 9, Quận 10 để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong bóp da màu đen Lê Ngọc Bảo C đang cầm trên tay có 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu, theo C khai là ma túy tổng hợp của C cất giữ để sử dụng. Công an Phường 9, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C; sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 2455/KL-KTHS ngày 04/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: “Tinh thể không màu trong 01 gói niêm phong là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1073 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, xác định:

Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 25/4/2022, tại một khách sạn ở huyện Bình Chánh (C không nhớ rõ địa điểm), C được một người bạn tên M (không rõ lai lịch) cho 01 gói ma túy, C cất giữ để sử dụng. Việc C được cho và cất giữ ma túy thì Bùi Tấn L hoàn toàn không biết và không có liên quan gì đến số ma túy trên.

Vật chứng vụ án:

Đối với: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 51K2-X; theo L khai vào tháng 3/2022 L mua xe trên của một người đàn ông tên T1 (không rõ lai lịch) tại khu vực ngã tư đường 3/2 – Lê Hồng Phong, khi mua T1 nói xe đã bị mất giấy tờ, giữa L và T1 không làm giấy mua bán. Xác minh biển số 51K2- X cấp xe mô tô nhãn hiệu Flame, do bà Lâm Ngọc M1 đứng tên chủ sở hữu. Bà M1 khai đã bán chiếc xe mô tô hiệu Flame cho một người từ năm 2017. Xác minh xe mô tô có số khung, số máy trên được biển số 77K1-X, do bà Lê Thị H1 đứng tên chủ sở hữu, theo bà H1 khai giao chiếc xe biển số 77K1-X giao cho ông Nguyễn Đình P là con trai bà H1 sử dụng; ông P khai bị mất trộm xe vào ngày 18/3/2022 tại nhà đường Nguyễn Thị T, phường Bình T, Quận L. Xác minh tại Công an phường Bình Thuận, Quận 7, không có tiếp nhận việc trình báo mất xe của ông P. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã chuyển xe mô tô trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 để điều tra xử lý theo thẩm quyền. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 có văn bản từ chối tiếp nhận; hiện Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu VIVAS có số thuê bao 090xxx3603 C dùng để liên lạc với đối tượng tên M (không rõ lai lịch) để xin ma túy, 01 bóp da màu đen C sử dụng để cất giữ trái phép ma túy, 01 gói niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trần Đình H và Cán bộ điều tra Trương Công V số vụ 468/22 bên trong chứa 0,0711gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine còn lại sau giám định; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Riêng đối với: 01 căn cước công dân số 0791xxx02836 mang tên Lê Ngọc Bảo C, là giấy tờ cá nhân của C, không liên quan đến vụ án. Theo yêu cầu của C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã giao trả cho bà Phạm Thị Phi Hồng (là bác của C) quản lý.

Căn cứ vào chứng cứ thu thập được hiện tại, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Lê Ngọc Bảo C về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại Cáo trạng số 57/CT-VKSQ10 ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Lê Ngọc Bảo C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Lê Ngọc Bảo C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác, vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về tổ chức phiên tòa trực tuyến, ngày 19/8/2022 Tòa án nhân dân Quận 10 đã có văn bản thông báo về việc tổ chức phiên tòa trực tuyến xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; ngày 22/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 đã có văn bản số 57/VKS-KSĐT về việc thống nhất tổ chức phiên tòa trực tuyến đối với vụ án, Do vậy, Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xét xử trực tuyến sơ thẩm vụ án hình sự này theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 của liên bộ Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định về ma túy, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Ngọc Bảo C cất giữ trái phép: 0,1073gram Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn; do vậy, bị cáo Lê Ngọc Bảo C bị truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”. Hành vi đó của bị cáo cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với tiền sự, nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do đã xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 gói niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Trần Đình H và cán bộ điều tra Trương Công V); là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 bóp da màu đen; không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Vivas (số thuê bao 090xxx3603), là phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 biển số 51K2-X, lưu hành không hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 chiếc xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, màu sơn: Xanh đen, dung tích xi lanh: 110, số khung: RLCUE3210-JY197210, số máy: E3X9E-460058); theo Lợi mua xe trên gắn biển số 51K2-X của một người đàn ông tên T1 (không rõ lai lịch) tại khu vực ngã tư đường 3/2 – Lê Hồng Phong; khi mua T1 nói xe đã bị mất giấy tờ, giữa Lợi và T1 không làm giấy mua bán; xác minh biển số 51K2-X cấp xe mô tô nhãn hiệu Flame, do bà Lâm Ngọc M1 đứng tên chủ sở hữu, bà M1 khai đã bán chiếc xe mô tô hiệu Flame cho một người từ năm 2017; xác minh xe mô tô có số khung, số máy trên được biển số 77K1-X, do bà Lê Thị H1 đứng tên chủ sở hữu, theo bà H1 khai giao chiếc xe biển số 77K1-X giao cho ông Nguyễn Đình P là con trai bà H1 sử dụng; ông P khai bị mất trộm xe vào ngày 18/3/2022 tại nhà đường Nguyễn Thị T, phường Bình T, Quận L, phía bà Hồng vẫn còn lưu giữ bản chính giấy đăng ký xe. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), trả lại cho bà Lê Thị H1 quản lý chiếc xe trên.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc Bảo C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Ngọc Bảo C;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Bảo C 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2022.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Trần Đình H và cán bộ điều tra Trương Công V), 01 biển số 51K2-X.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivas (số thuê bao 090xxx3603).

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 bóp da màu đen.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), trả lại cho bà Lê Thị H1 quản lý chiếc xe môtô (loại xe: Hai bánh, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: SIRIUS, màu sơn: Xanh đen, dung tích xi lanh: 110, số khung: RLCUE3210-JY197210, số máy: E3X9E-460058).

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/8/2022 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về