TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 610/2020/HS-PT NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 527/2020/TLPT- HS ngày 05/11/2020 đối với bị cáo Trương Quốc A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HSST, ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo kháng cáo:
Trương Quốc A; Sinh năm 1992, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 649/15 Hậu Giang, Phường 11, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 87/22 đường số 18, phường BHH, Quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: thợ uốn tóc; Trình độ học vấn: lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Quốc C và con bà Lê Thị D; Chưa có vợ, có 01 người con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự:
không; Nhân thân: Ngày 20/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Tạm giam từ ngày 09/6/2020, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 09/6/2020, bị cáo Trương Quốc A đến khu vực công viên E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh mua của một thanh niên (không rõ lai lịch) 250.000 đồng chất ma túy, dạng thuốc “lắc” về sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, bị cáo điện thoại rủ bạn là Trần Thanh Duy đi chơi thì Duy sử dụng xe máy biển số 59M2-301.13 đến chở bị cáo về Quận 11. Trên đường đi đến trước số 686 Trần Hưng Đạo, Phường 2, Quận B thì bị tổ công tác hình sự đặc nhiệm Công an Quận B tuần tra kiểm tra, phát hiện trong túi quần trước bên phải của bị cáo có 01 gói giấy, bên trong có 01 viên nén màu xanh, bị cáo khai là ma túy dạng thuốc “lắc”. Tổ công tác đưa bị cáo cùng vật chứng về Công an Phường 2, Quận B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại bản Kết luận giám định số 970/KLGĐ-H ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 viên nén màu xanh trong 01 gói giấy được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trương Quốc A và hình dấu Công an Phường 2, Quận B (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5124g, loại MDMA.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HSST, ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trương Quốc A 2 (Hai) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 01/10/2020 bị cáo Trương Quốc A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Trương Quốc A khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Bản án sơ thẩm đã mô tả, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo Trương Quốc A thực hiện đã nhận định: Mức án 2 năm 6 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện hòa nhập cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trương Quốc A khai nhận đã có hành vi cất giữ 0,5124g, loại MDMA trong người và đã bị tổ trinh sát, đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang tại trước nhà số 686 Trần Hưng Đạo, Phường 2, Quận B. Do đó Bản án sơ thẩm kết tội bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Do đó cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng luật. Bị cáo từng bị Tòa án xét xử cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vào năm 2016, nay lại tiếp tục phạm tội này do đó cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 2 năm 6 tháng tù là phù hợp, đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội bị cáo gây ra và đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để giảm án cho bị cáo.
[4] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Quốc A; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HSST, ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: Trương Quốc A 2 (Hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2020.
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trương Quốc A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 610/2020/HS-PT
Số hiệu: | 610/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về