Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 26/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 26 tháng 10 năm 2023, tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2023/TLST-HS, ngày 02/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2023/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn N, tên gọi khác: Không, giới tính: N. Sinh ngày 06/9/1993 tại xã Tr, huyện Th, tỉnh H. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Th, thành phố H, tỉnh H. Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Lê Văn H (Đã chết). Con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962. Hiện trú tại thôn T, xã Th, thành phố H, tỉnh H.Vợ, con: Chưa có. Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án: 04 tiền án.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2015/HSST ngày 27/8/2015 của Toà án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2016.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST ngày 27/10/2016 của Toà án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/11/2017.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2018/HSST ngày 23/5/2018 của Toà án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/6/2020.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2021/HSST ngày 09/3/2021 của Toà án nhân dân thành phố Hà tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 27 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/3/2023. Chưa được xoá án tích.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1978. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trú ở tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện Th. Vắng mặt

- Anh Lê Văn Nh, sinh năm 1998. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trú tại thôn T, xã Th, thành phố H. Có mặt Người chứng kiến: Ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1962. Địa chỉ: Tổ dân phố 7, thị trấn T, huyện Th, tỉnh H. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng chất ma tuý nên ngày 23/6/2023, Lê Văn N đã sử dụng điện thoại di động liên lạc với một người đàn ông tên Nguyễn Văn H (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) hỏi mua 02 viên ma tuý để sử dụng với giá 1.000.000 đồng. Sau khi lấy được ma túy, N đưa đến cất dấu tại nghĩa trang xã Thạch Trung, thành phố Hà Tĩnh. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 25/6/2023, Lê Văn N điều khiển xe mô tô đến nghĩa trang xã Thạch Trung lấy số ma tuý đã cất dấu đi tìm nơi sử dụng. Khi N đang đi trên đường quốc lộ 1A thuộc tổ dân phố 7, thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà thì bị tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về Kinh tế - Ma tuý Công an huyện Thạch Hà phối hợp với Công an thị trấn Thạch Hà kiểm tra và bắt giữ. Quá trình kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên phải, phía trước của Lê Văn N đang mặc có 01 túi nilong trong suốt có kích thước (04 x 07) cm chứa 02 viên nén màu xám, N khai nhận đó là ma túy N mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Kết quả xét nghiệm ma túy tại Khoa xét nghiệm, Trung tâm y tế huyện Thạch Hà ngày 25/6/2023 thể hiện: Lê Văn N dương tính với MDMA.

Tại Bản kết luận giám định số 616/KL-KTHS ngày 28/6/2023 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: 02 viên nén màu xám chứa trong 01 túi nilong trong suốt có kích thước (04 x 07) cm gửi giám định là ma tuý, loại MDMA, có khối lượng 0,8086gam.

MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I.B, STT 11, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Vật chứng vụ án gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave alpha, màu trắng, biển kiểm soát 38M1 - X, số khung 1219DY663404, số máy HC12E5663454, đã qua sử dụng. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+, số IMEI 1: 3529871016221318, IMEI 2: 352988101621136, gắn thẻ Sim có số thuê bao 1: 0855X293, số thuê bao 2: 0856X115. 01 gói ni lông trong suốt có kích thước 04x04 cm bên trong có hai viên nén màu xám.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38M1 - X nói trên thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1978, trú ở tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện Th. Anh Q cho em trai của Lê Văn N là anh Lê Văn Nh, sinh năm 1998, trú tại thôn T, xã Th, thành phố H mượn làm phương tiện đi lại. Việc Lê Văn N tự ý sử dụng xe mô tô này đi mua ma túy, anh Q và anh Nh không biết. Ngày 22/8/2023, xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Hà đã trả lại mô tô biển kiểm soát 38M1 - X cho chủ sở hữu.

Số vật chứng còn lại gồm: điện thoại di động và số ma tuý còn lại sau khi lấy mẫu giám định hiện đang được Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạch Hà quản lý theo quy định.

Với hành vi trên, tại cáo trạng số 58/CT-VKS-TH, ngày 28/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm o khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị áp dụng điểm o, khoản 2, Điều 249, tiết đầu điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 05 năm 06 tháng đến 6 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu sung công quỹ chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo và tịch thu tiêu hủy số ma túy là tang vật của vụ án. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh luận gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa không có ý kiến gì.

Lời nói sau cùng bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình; mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để được sớm trở về với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra huyện Thạch Hà, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục tố tụng; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Vì vậy, HĐXX khẳng định quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở khẳng định:

Vào lúc 02 giờ 00 ngày 25/6/2023, tại đường Quốc lộ 1A thu dân phố 7, thị trấn Thạch Hà, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về Kinh tế - Ma tuý Công an huyện Thạch Hà phối hợp với Công an thị trấn Thạch Hà phát hiện, bắt quả tang Lê Văn N đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,8086gam ma túy MDMA nhằm mục đích sử dụng.

Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2, Điều 249 của Bộ luật hình sự với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà truy tố bị cáo Lê Văn N về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không - Tình tiết giảm nhẹ: “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, theo quy định tại tiết đầu điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những vi phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước về ma túy mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, có 4 tiền án, bị cáo mới chấp hành hình phạt của bản án cuối cùng vào ngày 11/3/2023, đến ngày 25/6/2023 lại tiếp tục phạm tội. Điều đó cho thấy thái độ coi thường pháp luật, vì vậy cần được xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ sức răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Mức hình phạt như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để thỏa mãn nhu cầu bản thân, do đó miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4 thu của bị cáo là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, cần căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 phong bì thư màu trắng có chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” được dán kín niêm phong, bên trong có một viên nén màu xám có khối lượng 0,4001gam được cho vào một túi ni lông trong suốt cùng toàn bộ vỏ bao gói cũ đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án huyện Thạch Hà cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy là phù hợp.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave alpha, màu trắng, biển kiểm soát 38M1 - X, số khung 1219DY663404, số máy HC12E5663454. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô nói trên thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn Q. Việc Lê Văn N tự ý sử dụng xe mô tô này đi mua ma túy, anh Q không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Q là phù hợp.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông tên Nguyễn Văn H đã bán ma tuý cho Lê Văn N (theo lời khai của N), quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Hà đã áp dụng các biện pháp xác minh nhưng do thông tin Lê Văn N cung cấp không đầy đủ nên Cơ quan CSĐT chưa làm rõ được nhân thân, lai lịch của người này. Yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Nguyễn Văn Q và anh Lê Văn Nh, do không biết Lê Văn N sử dụng xe mô tô để đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm của hai người này.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm o, khoản 2, Điều 249, tiết đầu điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Văn N 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (25/6/2023 ).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 viên nén màu xám có khối lượng 0,4001gam được cho vào một túi ni lông trong suốt cùng toàn bộ vỏ bao gói cũ được cho vào một phong bì thư có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” dán kín mép, trên mép dán có chữ ký của những người tham gia niêm phong).

- Sung vào công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4+, số IMEI 1: 3529871016221318, IMEI 2: 352988101621136, gắn thẻ Sim có số thuê bao 1: 0855X293, số thuê bao 2: 0856X115.

(Đặc điểm vật chứng nói trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 28/9/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Hà).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2023/HS-ST

Số hiệu:60/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về