Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh Thái Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 61/2023/HSST ngày 08 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1982 HKTT: Số 71/13, Nguyễn Bặc, Tổ 16, khu phố x, phường B, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú: Thôn Kh, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng.

Nghề nghiệp: Tu sỹ tại chùa Cô Sơn thuộc thôn Kh, xã Q, huyện Ti, thành phố Hải Phòng; Trình độ văn hóa: 12/12.

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Xáo (đã chết) và bà Nguyễn Thị Bích Nga, sinh năm 1957. Gia đình có 03 anh em bị cáo là con thứ hai; Vợ con: Chưa có.

Nhân thân: Được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12/12. Theo văn bản phúc đáp số 01/PĐ-BTS của Ban trị sự Hội phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng ngày 11/3/2023, thể hiện: Năm 2009 xuất gia tại chùa V (A Tự) tại số 244, đường T, phường Tr, quận L, thành phố Hải Phòng. Năm 2013, thụ giới Sa Di, pháp danh Thích Bản T. Năm 2017, thụ giới Tỷ Kheo, pháp danh Thích Bản T, chức sắc: Không; chức việc: Là thành viên giáo hội phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng tại chùa C thuộc thôn Kh, xã Q, huyện T, thành phố hải Phòng để phục vụ tín ngưỡng từ năm 2021, chưa cấp Quyết định trụ trì chùa Cô Sơn cho Nguyễn Thành Đ vì chưa đủ điều kiện theo quy định của Giáo hội.

- Quyết định số 01/QĐ-BTS ngày 24/3/2023 về việc kỷ luật khai trừ thành viên giáo hội phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng đối với Tỳ Kheo Thích Bản T thế danh Nguyễn Thành Đ không còn là tu sĩ thành viên giáo hội phật giáo Việt Nam thành phố H.

- Kết quả xét nghiệm tại Trung tâm y tế huyện ĐH thể hiện, bị cáo Đ thuộc trường hợp dương tính với HIV.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/3/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

+ Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Ph, xã Đ, huyện ĐH, Thái Bình.

+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1955 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, thị trấn Đ, huyện ĐH, Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân có sử dụng ma túy đá từ tháng 02/2023 nên khoảng 19 giờ ngày 01/3/2023, Đ điều khiển xe mô tô Honda Wave Alpha, biển kiểm soát 16M5-11xx do Đ mua lại của chị Vũ Thị M, sinh năm 1988 đi từ chùa C nơi Đ tu hành đến khu vực Hồ Sen thuộc quận L, thành phố H tìm và mua của một người đàn ông khoảng 45 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy đá đựng trong túi nilon nhỏ, màu trắng, có nắp cài viền nhựa màu xanh với số tiền 800.000 đồng. Sau đó Đ mang về chùa C sử dụng một ít còn lại Đ vẫn để trong gói nilon. Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 02/3/2023, Đ điều khiển xe môtô từ chùa C sang tỉnh Nam Định làm lễ cúng khi đến khu vực tổ 5, thị trấn Đ, huyện ĐH, tỉnh Thái Bình Đ dừng lại nghỉ, khi Đ đang đi bộ thì bị lực lượng Công an huyện ĐH yêu cầu dừng lại để kiểm tra do có nghi ngờ liên quan đến ma túy. Công an huyện ĐH đã mời ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn Ng chứng kiến sự việc và tiến hành niêm phong vật chứng và quản lý của Đ 01 chiếc xe mô tô Wave Alpha biển kiểm soát 16M5-11xx và chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh có số sim 0971771xx82. Sau đó dẫn Đ về UBND thị trấn ĐH lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số: 300/KL-KTHS ngày 03/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Vật chứng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphtamine, có khối lượng 0,1476 gam”.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 61/CT-VKSĐH ngày 07/6/2023 đã truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Thành Đ đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về áp dụng pháp luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Ngoài ra còn đề nghị HĐXX giải quyết về vật chứng, án phí của vụ án.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐH, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện ĐH tỉnh Thái Bình lập hồi 16 giờ 45 phút ngày 02/3/2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn ĐH, huyện ĐH, tỉnh Thái Bình; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản ảnh vật chứng; Lời khai của những người chứng kiến ông Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn Văn Ng cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

[2.1] Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 02/3/2023, tại tổ 5, thị trấn Đ, huyện ĐH, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Thành Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,1476 gam ma túy loại Methamphetamine ở trong túi áo khoác bên phải đang mặc với mục đích để sử dụng, bị Công an huyện ĐH tỉnh Thái Bình bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành Đ đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

2…”.

[2.2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ: Đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Ma tuý còn là nguồn gốc phát sinh các loại bệnh tật ảnh hưởng đến giống nòi và thuần phong mỹ tục của dân tộc, kéo theo sự xuống cấp của đạo Đ xã hội và là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức được việc sử dụng ma túy là nguy hiểm và vi phạm pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nên cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[2.3] Khi xem xét, cân nhắc hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ:

- Bị cáo Nguyễn Thành Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Có thành xuất sắc trong học tập và công tác đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Tham gia tích cực vào hoạt động thiện nguyện nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH tại phiên tòa là phù hợp.

[2.4] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2.5] Trong vụ án này:

- Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Đ khai mua của một người nam giới khoảng 45 tuổi ở khu vực Hồ Sen thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

- Số tiền 800.000 đồng, bị cáo dùng để mua ma túy là do bị cáo lao động mà có nên không truy thu.

[3] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 0,1079 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐH và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐH ngày 07/6/2023 cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô Wave Alpha biển kiểm soát 16M5-11xx và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh có số sim 0971771xx82 được xác định là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của Đ và không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo và giao cho mẹ đẻ bị cáo quản lý cần chấp nhận.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thành Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/3/2023.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thành Đ.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu: 0,1079 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐH và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐH ngày 07/6/2023.

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện ĐH đã trả cho bị cáo Đ: 01 chiếc xe mô tô Wave Alpha biển kiểm soát 16M5-11xx và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax màu xanh có số sim 0971771xx82.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thành Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về