Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2023/QĐXXST-HS ngày 14 ngày 09 tháng 2023, đối với bị cáo:

Lò Văn Q; Sinh năm 1979; Tên gọi khác: Không.

Nơi sinh: Xã Q, huyện M, tỉnh H; Nơi cư trú: Bản Pùng, xã Q, huyện M, tỉnh H. Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn Ù (đã chết), Con bà: Vi Thị B, sinh năm: 1956; Vợ: Vi Thị Q1, sinh năm: 1982, bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2007.

Tiền án: 01, ngày 19/11/2014 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh H xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số: 34/2014/HSST (Bị cáo chưa bồi thường xong phần dân sự) Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày từ 04/6/2023 chuyển tạm giam ngày 07/6/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh H đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc K - Trợ giúp viên pháp lý, chi nhánh S - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 04/6/2023, Q một mình đi xe máy biển kiểm soát 36M2-xxxx từ nhà tại bản p, xã Q, huyện M mang theo 03 con ngan xuống khu chợ T1, thị trấn M bán được số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Khi bán được ngan, Q nảy sinh ý định đi mua ma túy về để sử dụng, nên tiếp tục đi xe máy đến cây xăng thuộc Khu B, Thị trấn M đổ xăng rồi đi xuống khu vực bản K, xã N, huyện M, tỉnh H. Khi Q đi đến bản Kéo Hượn xã N, Q để xe bên đường rồi đi bộ theo đường mòn sang bản Kham Nàng - Lào để tìm mua ma túy. Đen nơi Q gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, không biết tên, tuổi địa chỉ đang đi trên đường, Q đã hỏi và mua được ma túy của người này với số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), người phụ nữ đưa ra cho Q 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa các cục ma túy (Heroine). Mua được ma túy Q lấy một ít ra sử dụng, sử dụng xong Quyết cất số ma túy còn lại vào trong cổ áo khoác màu đen đang mặc rồi đi về nhà.

Khoảng 17 giờ Q về đến vị trí để xe máy thuộc bản Kéo Hượn, xã N để lấy xe đi về nhà, khi Q đang đứng chỗ để xe máy là km 72, Quốc lộ A, thuộc bản K, xã N thì Q bị Đồn biên phòng P phối hợp với Công an xã N đang đi tuần tra, kiểm soát và phát hiện Q có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy, nên đã yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra Q không có giấy tờ tùy thân, khai tên Lò Văn Q, sinh năm 1979, trú tại bản Pùng, xã Q, huyện M, tỉnh H, tiếp tục kiểm tra thì Lò Văn Q tự tay lấy ở trong cổ áo màu đen đang mặc trên người ra 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng chất bột màu trắng ngà. Lò Văn Q khai nhận đó là H vừa mua được ở bản K - Lào về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đà tuyên bố bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật, ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động Sam Sung màu xanh dương, loại cảm ứng; 01 xe máy YAMAHA, màu xanh, biển kiểm soát 36M2-xxxx, số khung: 83106Y073809; Số máy: 3S31073809, xe đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số: 2089/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh T, kết luận:

Cht bột màu trng ngà của phong bì niêm phong gửi dám định là ma túy có tng khối lượng 0,637g (Không phy sáu ba bảy gam) loại: Heroine.

Vật chứng, tài sản liên quan đến vụ án, hiện tang vật đang được lưu giữ, bảo quản tại chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh H chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 55/CT-VKS-ML ngày 06 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, không ai xúi giục hay ép buộc nhận tội thay người khác. Bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép là vi phạm pháp luật và bị Nhà N nghiêm cấm nhưng do không kiềm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, không khai báo thêm tình tiết mới.

Tranh luận và luận tội: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về điều luật áp dụng:

Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS;

Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên, Lò Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về hình phạt: Xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo là hộ nghèo nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo, gồm: 01 (một) điện thoại di động SamSung màu xanh dương, loại cảm ứng, đã qua sử dụng và 01 (một) xe máy YAMAHA màu xanh, biển kiểm soát: 36M2-xxxx, số khung 83106Y073809; Số máy: 3S31073809.

Về án phí: Bị cáo có tội, thuộc trường hợp được miễn án phí nên không phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ TNHS mà đại diện VKS đã đề nghị đối với bị cáo. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số lại sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình là hộ nghèo, nên đề nghị HĐXX mức án thấp nhất đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo làm nghề trồng trọt thu nhập không ổn định và miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo, bị cáo không bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi, quyết định tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định, thời gian, không gian, địa điểm và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 12 giờ 00 phút, ngày 04/6/2023, bị cáo đi từ nhà xuống chợ T2, T bán con N1. Khi bán được được N1 với số tiền là 400.000đ thì Lò Văn Q nảy sinh đi tìm mua ma túy để sử dụng (Vì Q là người nghiện ma túy lâu năm). Sau đó Lò Văn Q đi xe máy đến Bản K, xã N, để xe máy ven đường rồi đi bộ sang bản Khằm N2 (Lào) để mua ma túy. Tại Lào Lò Văn Q đã mua của người phụ nữ dân tộc H’Mông được 01 cục hêrôin, với số tiền là 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng). Có ma túy, Lò Văn Q sử dụng đi một ít, sau đó cất giấu ma túy vào cổ áo đang mặc và đi về Việt Nam. Đến 17 giờ cùng ngày, Lò Văn Q về đến chỗ để xe máy ven đường thì bị Đồn biên phòng P phối hợp với Công an xã N bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” khi đang cất giấu trong cổ áo đang mặc. Qua giám định, số ma túy thu giữ của bị cáo Lò Văn Q có khối lượng là 0,637g (không phẩy sáu ba bảy gam) loại: Heroine.

Với hành vi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo, khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Nước CHXHCN Việt Nam, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, vì bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện, bị pháp luật nghiêm cấm, khi sử dụng sẽ phải phụ thuộc hoàn toàn vào ma túy, ma túy còn hủy hoại thể chất, tinh thần và đồng thời cũng là tác nhân phát sinh các tội phạm khác, nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ với mục đích sử dụng, hành vi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền về quản lý chất ma túy của nhà nước, gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 34/2014/HS-ST ngày 19/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện M, bị cáo chưa được xóa án tích, do bị cáo chưa thi hành khoản bồi thường trách nhiệm dân sự. Nên HĐXX buộc bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, thái độ ăn năn hối cải, nên HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 BLHS để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật và để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện; tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; khối lượng ma túy thu giữ; nhân thân bị cáo đã bị kết án về hành vi phạm tội, chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân, lại tiếp tục phạm tội để phải đưa ra xét xử ngày hôm nay, thể hiện ý chí coi thường pháp luật của bị cáo, thì HĐXX sẽ xem xét, cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất mức độ, hành vi của bị cáo gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, phòng ngừa; Thấy rằng đề nghị về hình phạt của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với hành vi phạm tội, khối lượng chất ma túy thu giữ, đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt thu nhập không ổn định gia đình bị cáo là hộ nghèo. Nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xét về vật chứng trong vụ án:

Tịch thu tiêu hủy toàn số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định, được đựng trong 01 (một) phong bì đựng mẫu vật đã qua giám định, do phòng K1 Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rồ họ tên của Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng K1 Công an tỉnh T làm giáp lai. Vì đây là vật chứng vụ án, là chất Nhà nước cấm lưu hành.

Trả lại cho bị cáo, gồm: 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG A10S màu xanh đen, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 (một) xe máy YAMAHA màu xanh, biển kiểm soát: 36M2-xxxx, số khung 83106Y073809; số máy: 3S31073809, xe đã qua sử dụng. Vì đây không phải là công cụ, dụng cụ, phương tiện phạm tội.

[7]. Xét về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình là hộ nghèo nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Bị cáo có quyền kháng cáo; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

[9]. Các nhận định khác: Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Lò Văn Q, Q khai đây là người phụ nữ dân tộc Mông người Lào, không rõ tên tuổi, địa chỉ, việc trao đổi, mua bán ma túy diễn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, không có ai chứng kiến nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M không có thẩm quyền xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điều 50; Điểm s khoản 1, Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Áp dụng Điều 106; Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên Lò Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. 2. Về hình phạt: Xử phạt Lò Văn Q 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (04/6/2023). Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: Tịch thu tiêu hủy toàn số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định, được đựng trong 01 (một) phong bì đựng mẫu vật đã qua giám định, do phòng K1 Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng K1 Công an tỉnh T làm giáp lai.

Trả lại cho bị cáo Lò Văn Q, gồm: 01 điện thoại di động SAMSUNG A10S màu xanh đen, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 xe máy YAMAHA màu xanh, biển kiểm soát: 36M2-xxxx, số khung 83106Y073809; số máy: 3S31073809, xe đã qua sử dụng.

Vật chứng, tài sản trên đang lưu giừ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh H. Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 54/QĐ-VKS-ML, ngày 06/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh H và Biên bản giao nhận vật chứng số: 75/2023/TV-CCTHADS ngày 06/9/2023 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh H 4. Về án phí: Tuyên miễn tiền án phí HSST cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự.

Án xử công khai, có mặt bị cáo; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự căn cứ Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về