Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2023/HSST-QĐ ngày 30 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Lộc Văn Đ1 (tên gọi khác: Không có); sinh ngày 28 tháng 5 năm 1995 tại huyện V1, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đ2, xã T, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lộc Văn N1 và bà Lộc Thị L; có vợ là Hoàng Thị V2 và có 01 con sinh năm 2017; tiền án: Tại Bản án số 11/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 14/01/2023 chấp hành xong; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án số 13/2010/HSST ngày 24/3/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 năm tù về tội Hiếp dâm trẻ em, ngày 31/8/2011 được đặc xá, đã chấp hành xong, thuộc trường hợp được coi là không có án tích; bị bắt ngày 08/3/2023, tạm giữ ngày 09/3/2023, tạm giam từ ngày 11/3/2023 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lộc Thị L, địa chỉ: Thôn Đ2, xã T, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Phù Văn N2; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 08/3/2023, Lộc Văn Đ1 một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1 - 158**, đi từ nhà đến thị trấn N3, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực chợ N3, thuộc Khu *, thị trấn N3, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn, gặp một người đàn ông khoảng 28 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); sau khi trao đổi Lộc Văn Đ1 đã mua với người này 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng được 04 (bốn) gói ma túy (được gói bằng đoạn ống nhựa màu trắng bịt kín hai đầu). Lộc Văn Đ1 nhận lấy ma túy, cất vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe máy đến khu vực dốc K, thuộc Khu **, thị trấn N3 sử dụng hết 01 (một) gói ma túy; sau đó điều khiển xe đi về đến đoạn đường liên xã thuộc thôn N4, xã T, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng N5; Đội đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn và Công an xã T, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và lập biên bản theo quy định.

Tổ công tác đã thu giữ của Lộc Văn Đ1: 03 (ba) đoạn ống nhựa màu trắng bịt kín hai đầu, bên trong 03 (ba) đoạn ống nhựa đều có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine, được niêm phong trong một phong bì ghi chữ viết tay “QT Lộc Văn Đ1”; tạm giữ: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE biển kiểm soát 12V1 - 158 **; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh lam, cũ, đã qua sử dụng, bên trong có lắp 02 (hai) sim.

Ngày 09/3/2023, lực lượng chức năng đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lộc Văn Đ1 nhưng không thu giữ, đồ vật tài liệu gì.

Tại Kết luận giám định số 337/KL-KTHS ngày 10/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng 0,105 gam (đã trừ bì)”. (Tại Công văn số 87/PC09 ngày 17/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn khẳng định: “… chất ma túy được gọi là Heroine hoặc Heroin đều là tên gọi của cùng một chất ma túy có tên khoa học là Diacetylmorphine”).

Tại Cơ quan điều tra, ông Phù Văn N2 khai được chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo đúng quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-158** là của bà Lộc Thị L (mẹ của bị cáo), bà Lộc Thị L trình bày không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy về sử dụng; ngày 12/5/2023 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho bà; chiếc xe còn nguyên vẹn, nay bà không có ý kiến gì.

Tại Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 15/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lộc Văn Đ1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận bản thân tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật; điện thoại của bị cáo chỉ để liên lạc với người thân, không dùng để trao đổi mua ma túy, bị cáo xin lại để sử dụng. Chiếc xe mô tô là của bà Lộc Thị L (mẹ bị cáo), bà Lộc Thị L không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy; cơ quan điều tra đã trả xe cho bà Lộc Thị L bị cáo nhất trí, không có ý kiến gì. Bị cáo sinh ngày 28/5/1995 là đúng; tuy nhiên khi làm căn cước công dân ghi sai thành ngày 18/4/1995; nên từ khi bị bắt bị cáo khai theo căn cước công dân. Sau khi ra tù bị cáo sẽ thực hiện thủ tục sửa lại thông tin ngày tháng sinh trên căn cước công dân.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Lộc Văn Đ1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Lộc Văn Đ1 từ 15 tháng đến 20 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, toàn bộ các vỏ bao gói; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, đã có lời khai trong hồ sơ; căn cứ theo khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về lý lịch của bị cáo Lộc Văn Đ1: Tại Bản án số 13/2010/HSST ngày 24/3/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn và Bản án số 11/2021/HS -ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đều thể hiện bị cáo Lộc Văn Đ1 sinh này 28/5/1995; nhưng các tài liệu từ khi khởi tố vụ án, quá trình điều tra, truy tố, đều ghi bị cáo sinh ngày 18/4/1995. Tại giai đoạn xét xử cơ quan điều tra đã bổ sung tài liệu là Biên bản ghi lời khai của bà Lộc Thị L, bản sao giấy khai sinh của bị cáo đều thể hiện bị cáo Lộc Văn Đ1 sinh ngày 28/5/1995. Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định vân tay của Lộc Văn Đ1 tại Danh, chỉ bản số 088 lập ngày 14/3/2023 (ký hiệu A); Danh, chỉ bản số 081 lập ngày 15/10/2009 (ký hiệu M1) và Danh, chỉ bản số 164 lập ngày 14/9/2020 (ký hiệu M2) và Kết luận giám định số 774/KL-KTHS ngày 14/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn khẳng định: “Dấu vân tay trên danh, chỉ bản của mẫu cần giám định (ký hiệu A) và dấu vân tay trên danh, chỉ bản của mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) là dấu vân tay của cùng một người”. Do đó xác định bị cáo Lộc Văn Đ1 sinh ngày 28/5/1995 là đúng.

[4] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/3/2023, tại đường liên xã thuộc thôn N4, xã T, huyện V1, tỉnh Lạng Sơn, lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang Lộc Văn Đ1 đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,105 gam chất ma túy Heroine với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lộc Văn Đ1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bản thân bị cáo đã học đến lớp 9/12; nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội, nhưng chỉ vì để có ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 11/2021/HS- ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 14/01/2023 chấp hành xong; chưa được xóa án tích; lần phạm tội này là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Về nhân thân: Bị cáo bị kết án vào năm 2010 đã chấp hành xong, thuộc trường hợp được coi là không có án tích; năm 2021 bị kết án, chưa được xóa án tích, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu.

[9] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[10] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 11/5/2023 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định; không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[11] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì và toàn bộ các vỏ bao gói, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không sử dụng được; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động, là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1 - 158**, là tài sản của bà Lộc Thị L, bà Lộc Thị L không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy về sử dụng; cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lộc Thị L là phù hợp quy định.

[12] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự:

Không có yêu cầu nên không xem xét.

[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, cơ quan điều tra không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[15] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lộc Văn Đ1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lộc Văn Đ1 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 08 tháng 3 năm 2023.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,058 gam chất ma túy Heroin) được để trong 01 (một) phong bì niêm phong ghi chữ viết tay “QT Lộc Văn Đ1” và toàn bộ các vỏ bao gói.

3.2. Trả lại cho bị cáo Lộc Văn Đ1 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh lam, cũ, đã qua sử dụng, bên trong lắp 02 (hai) sim.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận đồ vật tài liệu, vật chứng ngày 19/6/2023).

4. Về án phí: Bị cáo Lộc Văn Đ1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về