TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 57/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 28/3/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 60/2024/TLST-HS ngày 15/3/2024, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2024/QĐXXST-HS ngày 15/3/2024 đối với bị cáo: Họ và tên: HOÀNG VĂN D; Giới tính: Nam; Sinh ngày 01/01/1989, tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: bản T, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 3/12; Ch c vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: không; Con ông Hoàng Văn O (đã chết, không xác định được năm sinh) và bà Lường Thị H (đã chết, không xác định được năm sinh); Gia đình bị cáo có 05 anh, chị, em; bị cáo là con th năm; Bị cáo có vợ là Lò Thị L, sinh năm 1990 và 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 18/12/2023, tạm giam từ ngày 27/12/2023, tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay (có mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: chị Lò Thị L, sinh năm 1990. Địa chỉ: bản T, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 18/12/2023, Hoàng Văn D một mình điều khiển xe mô tô đi từ nhà tại bản T, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu đến bản N, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu để tìm mua Heroine sử dụng. Khoảng 13 giờ cùng ngày, tại bản N, xã P, huyện T, Hoàng Văn D gặp và mua từ một người phụ nữ không rõ lai lịch 01 gói Heroine (được gói bằng mảnh nilon màu hồng), với giá 140.000 đồng. Sau đó, D lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình th c hít tại bản N. Số Heroine còn lại, D cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Trên đường về, Hoàng Văn D bị lực lượng Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang hồi 13 giờ 20 phút ngày 18/12/2023 tại bản N, xã P, huyện T. Vật ch ng thu giữ tại túi quần bên phải của Hoàng Văn D 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ của Hoàng Văn D 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, biển kiểm soát 25M1-X và 01 đăng ký xe mô tô số 002270.
Bản kết luận giám định số 129 ngày 18/12/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc và bản Kết luận giám định số 30 ngày 21/12/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “Số chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Văn D có khối lượng là 0,15 gam; là ma túy, loại: Heroine”.
Về vật ch ng: 0,15 gam Heroine thu giữ của Hoàng Văn D, đã gửi giám định toàn bộ (không hoàn lại mẫu vật); còn lại 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Wave RSX biển kiểm soát 25M1-X và 01 đăng ký xe mô tô số 002270. Các vật ch ng còn lại hiện đang được bảo quản theo quy định.
Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 15/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, truy tố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các ch ng c , tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian và địa điểm phạm tội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38/Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên phạt Hoàng Văn D m c án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung và buộc bị cáo phải chịu án phí HSST.
Về vật ch ng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1, Điều 47/Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong vật ch ng để tiêu hủy; Tịch thu 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Wave RSX biển kiểm soát 25M1-X và 01 đăng ký xe mô tô số 002270 để sung vào ngân sách Nhà nước.
Trong đơn xin vắng mặt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị L trình bày: Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25M1-X và 01 đăng ký xe mô tô số 002270 bị thu giữ là do chị mua, việc bị cáo D sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội chị không biết, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe nói trên cho chị làm phương tiện đi lại.
Căn c vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện những ch ng c , tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng ch c năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ án theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42/Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về hành vi phạm tội và cấu thành tội phạm: Vào hồi 13 giờ 20 phút ngày 18/12/2023, tại bản N, xã P, huyện T, Hoàng Văn đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,15 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang cùng vật ch ng. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.
[3]. Về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Hành vi bị cáo Hoàng Văn D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận th c được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Ma tuý đang là nỗi nh c nhối trong đời sống xã hội, và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó mọi hành vi phạm tội liên quan tới ma tuý cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[4]. Về mục đích phạm tội của bị cáo: Hoàng Văn D là đối tượng nghiện chất ma túy, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy là để phục vụ nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân bị cáo.
[5]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hoàng Văn D được sinh ra trong gia đình lao động, mặc dù có tuổi đời còn khá trẻ nhưng ăn chơi, đua đòi dẫn đến bị nghiện chất ma túy. Để có ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố hành vi phạm tội và đề xuất m c hình phạt đối với bị cáo là có căn c . Cần có m c án tương x ng với hành vi phạm tội, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian phù hợp để bị cáo có điều kiện cải tạo, cai nghiện trở thành người có ích.
Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249/Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[6]. Về vật ch ng: Đối với 0,15 gam Heroine đã gửi làm mẫu vật gửi giám định không hoàn lại nên Hội đồng xét xử không xem xét, 01 mảnh nilon màu hồng;
01 vỏ bì niêm phong vật ch ng, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Wave RSX biển kiểm soát 25M1-X đã qua sử dụng thu giữ khi bắt Hoàng Văn D và 01 đăng ký xe mô tô số 002270 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đề nghị được trả lại là không có căn c chấp nhận mà cần phải tịch thu, hóa giá để sung vào ngân sách Nhà nước.
[7]. Vấn đề liên quan trong vụ án: Về nguồn gốc Heroine, Hoàng Văn D khai mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch tại bản N, xã P, huyện T nên không có căn c để xác minh, điều tra, xử lý.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
[9]. Về biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục áp dụng biện pháp Tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn c vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH quy định về m c thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2023. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
3. Về vật ch ng: Tịch thu 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong vật ch ng để tiêu hủy. Tịch thu 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Wave RSX biển kiểm soát 25M1-X đã qua sử dụng thu giữ khi bắt Hoàng Văn D và 01 đăng ký xe mô tô số 002270 để hóa giá, sung vào ngân sách Nhà nước.
Các vật ch ng, đồ vật nêu trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Tình trạng, đặc điểm vật ch ng như Biên bản giao nhận vật ch ng, tài sản ngày 20/3/2024 giữa Cơ quan CSĐT - Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.
4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với phần liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong thời hạn mười lăm ngay kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 57/2024/HS-ST
Số hiệu: | 57/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về