TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ và Nhà tạm giữ công an huyện C, thành phố Cần Thơ đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2023/HSST ngày 01 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với:
Bị cáo Nguyễn Thị Bé T, sinh ngày 26/3/1991, tại huyện C, TP Cần Thơ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP .; Chỗ ở hiện nay: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn E (chết) và bà Phan Thị D; Chồng: Nguyễn Minh T1 (sống chung như vợ chồng); Con: có 03 người, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Phạm Thị Kim P, sinh năm 1977. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP.
Người chứng kiến:
Ông Võ Anh V, sinh năm 1959. Vắng mặt.
Anh Nguyễn Tấn H, sinh năm 2000. Vắng mặt.
Cùng cư trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP ..
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 03/10/2023, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C qua tin báo của người dân đã tiến hành khám xét khẩn cấp trên người và chỗ ở của bị cáo Nguyễn Thị Bé T tại nhà trọ không số tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ. Tang vật thu giữ gồm: 01 bịch nylon, được nẹp miệng một đầu, bên ngoài buộc sợi dây thun màu vàng, bên trong có chứa hạt tinh thể không màu ; 01 bịch nylon được nẹp miệng một đầu, bên trong có chứa hạt tinh thể không màu; 01 cây cân điện tử (thu giữ trong miếng thảm lau chân màu nâu phơi trên sào ở lan can tầng 01); thu giữ 01 ống nhựa màu trắng xanh; 01 cái nỏ thủy tinh (thu trên tầng 01); 01 miếng thảm lau chân màu nâu. Thu giữ trên người bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, có gắn sim số 079243662x và tiền Việt Nam 480.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: tháng 5/2023 bị cáo thuê nhà trọ tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ do bà Phạm Thị Kim P làm chủ. Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 02/10/2023 bị cáo đi xe ôm đến quận T, thành phố Cần Thơ gặp người tên T2 (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) mua 02 bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng, bị cáo đem về nhà trọ sử dụng một ít, số ma túy còn lại cất giấu trong miếng thảm lau chân màu nâu phơi trên sào ở lan can tầng 01 để sử dụng. Đến 10 giờ 40 phút, ngày 03/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C khám xét thu giữ.
Tại Bản kết luận giám định số: 316/KL-KTHS, ngày 11 tháng 10 năm 2023 của Phòng K Công an thành phố C kết luận: Mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 5,0375 gam; M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 3,6237 gam (bút lục 15).
Tại biên bản xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với bị cáo ngày 03/10/2023 thì xác định bị cáo dương tính với chất ma túy.
Đối với người tên T2 bán ma túy cho bị cáo do không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
Bà Phạm Thị Kim P cho bị cáo thuê nhà trọ, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy bà P không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý đối với bà P.
Bản cáo trạng số 56/CT-VKSCĐ ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bé T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 07 năm tù.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 316/KL-KTHS ngày 11/10/2023 có khối lượng còn lại sau giám định là M1: 4,8307gam, M2: 3,4248 gam đều là Methamphetamine; 01 cây cân điện tử; 01 ống nhựa màu trắng xanh; 01 cái nỏ thủy tinh; 01 miếng thảm lau chân màu nâu.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, có gắn sim số 079243662x và tiền Việt Nam 480.000 đồng.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hối cãi, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, thành phố Cần Thơ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Qua đối chiếu quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhận thấy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo thống nhất nội dung cáo trạng truy tố và khai nhận: Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 02/10/2023 bị cáo đi xe ôm đến quận T, thành phố Cần Thơ gặp người tên T2 (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) mua 02 bịch ma túy với giá 1.500.000 đồng, bị cáo đem về nhà trọ sử dụng một ít, số ma túy còn lại cất giấu trong miếng thảm lau chân màu nâu phơi trên sào ở lan can tầng 01 để sử dụng. Đến 10 giờ 40 phút, ngày 03/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C khám xét thu giữ.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và những chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa.
Xét thấy, bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo Bản kết luận giám định số: 316/KL-KTHS, ngày 11 tháng 10 năm 2023 của Phòng K Công an thành phố C kết luận: Mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 5,0375 gam; M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 3,6237 gam, tổng khối lượng là 8,6612 gam. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ mức án từ 06 năm đến 07 năm tù. Xét thấy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị nghiêm cấm, nhận thức được mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý nghiêm nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy cho bản thân. Do đó cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nên đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đối với 01 gói niêm phong số 316/KL-KLHS mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm; 01 ống nhựa màu trắng xanh; 01 cái nỏ thủy tinh là dụng cụ bị cáo sử dụng ma túy và 01 miếng thảm lau chân màu nâu, 01 cây cân điện tử thu giữ của bị cáo không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, có gắn sim số 079243662x và tiền Việt Nam 480.000 đồng do không liên quan đến việc phạm tội.
[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
[8] Bà Phạm Thị Kim P cho bị cáo thuê nhà trọ nhưng không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không xử lý đối với bà P là phù hợp.
[9] Đối với người thanh niên tên T2 bán ma túy cho bị cáo, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều Công an huyện C tiếp tục xác minh làm rõ, nếu đủ cơ sở sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Bé T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bé T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2023.
2. Về hình phạt bổ sung: Không.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 316/KL-KTHS ngày 11/10/2023 có khối lượng còn lại sau giám định là M1: 4,8307gam, M2: 3,4248 gam đều là Methamphetamine; 01 cây cân điện tử; 01 ống nhựa màu trắng xanh; 01 cái nỏ thủy tinh; 01 miếng thảm lau chân màu nâu.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, có gắn sim số 079243662x và tiền Việt Nam 480.000 đồng.
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 47/QĐ/VKSCĐ ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ).
4. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân địa phương nơi cư trú hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST
Số hiệu: | 57/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về