Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LV, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện LV, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 59/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H (tên gọi khác là Cu H), sinh năm 1989, tại Đồng Tháp; giới tính: Nam; Đăng ký thường trú và cư trú tại: Ấp B, xã B1, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không có; con ông: Trần Văn K và bà: Lê Thị Ngọc A; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 10/6/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 13 năm tù về tội “Giết người”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2021; tiền sự: Không có; tạm giữ ngày: 19/5/2023; tạm giam từ ngày 22/5/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện LV0, tỉnh Đồng Tháp; có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Trần Văn K, sinh năm 1958; Cư trú tại: Số 235B, ấp B, xã B1, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

2. Trương Văn Q, sinh năm 1987; Cư trú tại: Ấp A1, xã Đ, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn H có tiền án về tội “Giết người”. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2021, H không sửa chữa lỗi lầm mà sử dụng trái phép chất ma túy.

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/5/2023, Trần Văn H điều khiển xe mô tô biển số 66K3-xxxx đi đến khu vực ngã ba Lộ Tẻ thuộc quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ mua 01 bịch ma túy với giá 2.225.000 đồng của một người thanh niên tên P (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) để sử dụng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, H đem ma túy đến khu đất trống thuộc ấp A1, xã Đ, huyện LV, chia nhỏ ma túy để vào 20 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, rồi sử dụng trái phép chất ma túy tại chỗ hết 01 đoạn ống hút nhựa có chứa chất ma túy, 19 đoạn ống hút nhựa còn lại có chứa ma túy H cất giấu trên người để tiếp tục sử dụng.

Đến khoảng 15 giờ 45 phút ngày 19/5/2023, Trần Văn H cầm trong lòng bàn tay trái 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy và cất giấu 18 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất ma túy để trong 01 bịch nylong dạng nắp kẹp có viền màu đỏ để vào 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET giấu trong cốp xe mô tô biển số 66K3-xxxx, rồi điều khiển xe mô tô đi đến khu đất trống thuộc ấp A1, xã Đ, huyện LV để tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy. Khi đến đoạn đường đal trước nhà số 161, ấp A1, xã Đ, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp, H dừng xe chuẩn bị sang đường, thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, môi trường Công an huyện LV phối hợp Công an tỉnh Đồng Tháp tiến hành kiểm tra, H hoảng sợ nên thả lỏng bàn tay trái làm rơi 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất ma túy đang cầm xuống đường đal nơi H đứng, nên bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy; tiếp tục kiểm tra thu giữ bên trong cốp xe mô tô biển số 66K3- xxxx có 18 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy để trong 01 bịch nylon dạng nắp kẹp có viền màu đỏ để vào 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET. Sau đó đã tiến hành niêm phong tổng cộng 19 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất ma túy đã thu giữ.

Kết luận giám định số: 559/KL-KTHS ngày 22/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 19 đoạn ống hút màu trắng, hàn kín hai đầu, được niêm phong trong bao thư gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 2,625 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 247, mục IIC thuộc Danh mục II, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ). Mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 2,513 gam được dán giấy niêm phong lại, ghi “Niêm phong số: 549, ngày 19/5/2023”.

Cơ quan điều tra tiến hành xét nghiệm chất ma túy vào lúc 18 giờ 20 phút ngày 19/5/2023 đối với Trần Văn H, kết quả: Dương tính với chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với xe mô tô biển số 66K3-xxxx bị Cơ quan điều tra thu giữ khi H bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ 18 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa chất ma túy để trong cốp xe. Quá trình điều tra đã xác định được xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn K (cha ruột của H). H tự ý lấy xe sử dụng, ông Kèn không biết H sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 66K3-xxxx cho ông Kèn.

Tại Cáo trạng số: 57/CT-VKSLVo ngày 24/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện LV đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng. Trên cơ sở phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi của bị cáo đã gây ra; nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và áp dụng Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn H từ 02 năm đến 03 năm tù.

Bị cáo Trần Văn H không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng, căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định trong bao thư được niêm phong lại, ghi “Niêm phong số: 549, ngày 19/5/2023”.

- Bị cáo Trần Văn H thống nhất Biên bản bắt người phạm tội quả tang và Biên bản khám nghiệm hiện trường cùng ngày 19/5/2023; bị cáo không khiếu nại về kết luận giám định đối với chất ma túy, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Tại phần tranh luận: Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện LV và Điều tra viên trong quá trình điều tra; của Viện kiểm sát huyện LV và Kiểm sát viên trong quá trình truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý; bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật; ma túy bị cáo tàng trữ theo kết luận giám định số: 559/KL-KTHS ngày 22/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp là loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 2,625 gam.

Do đó, đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo H đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại điều khoản này quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, trị an tại địa phương, xâm phạm đến quyền độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Hành vi của bị cáo bị pháp luật nghiêm cấm, là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử công khai tại phiên tòa hôm nay là cần thiết, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho xã hội nói riêng và cũng nhằm phòng ngừa trong toàn xã hội nói chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là đã bị kết án về tội “Giết người”, chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, Kiểm sát viên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung phạt bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đúng với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với xe mô tô biển số 66K3-xxxx mà Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang H về hành vi tàng trữ 18 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất ma túy để trong cốp xe. Quá trình điều tra đã xác định được xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn K (cha ruột của H). H tự ý lấy xe sử dụng, ông Kèn không biết H sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 66K3-xxxx cho ông Kèn là đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định trong bao thư được niêm phong lại, ghi “Niêm phong số: 549, ngày 19/5/2023”.

(Vật chứng nêu trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện LV giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/9/2023).

3. Về án phí, áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

Số hiệu:57/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về