TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2023/HSST-QĐ ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Trịnh Hoàng T, sinh ngày 07/6/1997, tại Trà Vinh. Nơi cư trú: khóm 8, phường 7, thành phố Trà V, tỉnh Trà V; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Trịnh Hoàng V, sinh năm 1968 và bà Lê Thị Xuân T, sinh năm 1970; bị cáo có vợ tên: Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 2003; tiền án; 02 lần: Lần thứ nhất: vào ngày 11/4/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Trà V xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã được xóa án tích); Lần thứ hai: Vào ngày 31/8/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Trà V, tỉnh Trà V xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chưa xóa án tích); tiền sự: 01 lần: Ngày 11/4/2023 bị Công an xã Long Đức, thành phố Trà V, tỉnh Trà V xử phạt 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý (chưa nộp phạt); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/7/2023 sau đó chuyển tạm giam đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
1/ Em Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 2003 (có mặt).
Nơi cư trú: Số 2/43 khóm 2, phường 1, thành phố Trà V, tỉnh Trà V.
2/ Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1960 (vắng mặt) Nơi cư trú: Số 105/5 khóm 3, phường 1, thành phố Trà V, tỉnh Trà V.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Do đã từng mua ma túy của người thanh niên tên T khoảng 28 tuổi (không rõ họ tên và địa chỉ), nên vào khoảng 13 giờ ngày 19/7/2023, bị cáo Trịnh Hoàng T đang đi bộ trên đường Trương Văn K thuộc phường 1, thành phố Trà V, tỉnh Trà V thì gặp T, nên bị cáo nảy sinh ý định tiếp tục mua ma túy của T để sử dụng. Bị cáo hỏi mua của T một tép ma túy đá với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) thì T đồng ý bán cho bị cáo một đoạn ống nhựa màu hồng sọc trắng hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất ma túy. Mua được chất ma túy bị cáo cất giấu vào túi quần của bị cáo đang mặc rồi đi về phòng trọ số 3, Nhà trọ Nhất D thuộc khóm 4, phường 1, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà V mà bị cáo đã thuê trước đó để ở cùng với vợ là Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 2003, nơi thường trú: số 2/43 khóm 2, phường 1, thành phố Trà V, tỉnh Trà V.
Đến khoảng 15 giờ 40 phút ngày 20/7/2023, bị cáo đứng trước cửa phòng trọ số 3, Nhà trọ Nhất D còn T thì đang ở bên trong phòng trọ, lúc này bị cáo lấy đoạn ống nhựa màu hồng sọc trắng ra để xem số lượng ma túy bên trong đoạn ống nhựa thì có lực lượng Công an thành phố Trà V đến, sợ bị phát hiện nên bị cáo cất giấu tép ma túy bên trong lòng bàn tay trái của bị cáo nhưng bị lực lương Công an phát hiện và yêu cầu bị cáo lấy ra giao nộp: 01 (một) đoạn ống nhựa màu hồng sọc trắng, hàn kín hai đầu bên trong chứa chất nghi là ma túy được niêm phong trong túi niêm phong ký hiệu PS3, mã số PS3 1902856.
Đồng thời Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà V, tỉnh Trà V còn thu giữ vật chứng có liên quan gồm:
- 01 (một) chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn một nỏ thủy tinh không rõ hình dạng có viền màu xanh, chưa qua sử dụng.
- 01 (một) bật lửa có hình trái táo màu xanh bên trong có hai hạt màu vàng và màu tím chấm đen, đã qua sử dụng.
- 01 (một) đoạn ống nhựa một đầu hở, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu tím, đã qua sử dụng.
- 01 (một) đoạn ống nhựa trong suốt màu trắng một đầu cắt xéo, đã qua sử dụng.
- 01 (một) nỏ bằng thủy tinh, một đầu dạng hình phiểu, một đầu có gắn ống nhựa màu trắng, đã qua sử dụng.
- 01 (một) Căn cước công dân số: 0840970X92, họ và tên: TRỊNH HOÀNG T, ngày sinh: 07/6/1997, ngày cấp: 06/9/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an.
Tại kết luận giám định số: 550/KL-KTHS, ngày 25/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Trà V: Tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01 (một) đoạn ống nhựa màu hồng sọc trắng được niêm phong ký hiệu PS3 mã số PS3 1902856 gửi giám định là Ma túy; Loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,1674 gam.
Về vật chứng vụ án: Hiện đang tạm giữ vật chứng nêu trên.
Đối với người thanh niên tên T khoảng 28 tuổi (người bán ma túy cho bị cáo): Quá trình điều tra không rõ họ tên và địa chỉ, nên không làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Thị Mộng T không biết bị cáo cất giấu ma túy tại nơi ở và cũng không có vai trò gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên không xử lý.
Đối với bà Nguyễn Thị Thu H chủ Nhà trọ Nhất D: Không biết bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà trọ nên không xử lý và đồng thời Công an thành phố Trà V, tỉnh Trà V nhắc nhở và cho cam kết.
Tại Bản cáo trạng số: 48/CT-VKS-HS ngày 25/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Trịnh Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Trịnh Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Hoàng T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trịnh Hoàng T đã khai nhận: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, vào khoảng 13 giờ ngày 19/7/2023 bị cáo đi bộ đến đường Trương Văn K thuộc phường 1, thành phố Trà V mua 01 tép ma túy đá (loại Methamphetamine) có khối lượng 0,1674 gam của một người đàn ông tên T với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), sau khi mua được ma túy bị cáo đem về phòng trọ số 3, nhà trọ Nhất D thuộc khóm 4, phường 1, thành phố Trà V cất giấu thì bị Công an thành phố Trà V phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Hoàng T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Trịnh Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.
[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, bị cáo Trịnh Hoàng T có nhân thân rất xấu, đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản và Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án, nay bị cáo lại tiếp tục vi phạm. Hành vi của bị cáo không chỉ là tái phạm mà còn thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật, khước từ sự giáo dục, giúp đở của Nhà nước, tạo ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo. Nghĩ nên xem đây là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.
Đối với người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Mộng T, bà Nguyễn Thị Thu H có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra.
[5] Về vật chứng: 01 phong bì màu trắng, có dán giấy niêm phong, ghi số: 550/M, ghi ngày 25/7/2023, có các chữ ký ghi tên Nguyễn Thanh H và Nguyễn Văn M cùng hình tròn màu đỏ có nội dung Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Trà V; 01 chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn một nỏ thủy tinh không rỏ hình dạng có viền màu xanh, chưa qua sử dụng; 01 bật lửa có hình trái táo màu xanh bên trong có hai hạt màu vàng và màu tím chấm đen, đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nhựa một đầu hở, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu tím, đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nhựa trong suốt màu trắng một đầu cắt xéo, đã qua sử dụng; 01 nỏ bằng thủy tinh, một đầu dạng hình phiểu, một đầu có gắn ống nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; 01 Căn cước công dân số: 0840970X92, họ và tên TRỊNH HOÀNG TRUNG, ngày sinh 07/6/1997, ngày cấp 06/9/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy và trả lại cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trịnh Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trịnh Hoàng T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2023.
Căn cứ: Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng, có dán giấy niêm phong, ghi số: 550/M, ghi ngày 25/7/2023, có các chữ ký ghi tên Nguyễn Thanh H và Nguyễn Văn M cùng hình tròn màu đỏ có nội dung Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Trà V; 01 chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ, trên nắp có gắn một nỏ thủy tinh không rỏ hình dạng có viền màu xanh, chưa qua sử dụng; 01 bật lửa có hình trái táo màu xanh bên trong có hai hạt màu vàng và màu tím chấm đen, đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nhựa một đầu hở, đầu còn lại gắn đoạn ống nhựa màu tím, đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nhựa trong suốt màu trắng một đầu cắt xéo, đã qua sử dụng; 01 nỏ bằng thủy tinh, một đầu dạng hình phiểu, một đầu có gắn ống nhựa màu trắng, đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo Trịnh Hoàng T: 01 căn cước công dân số: 0840970X92, họ và tên TRỊNH HOÀNG T, ngày sinh 07/6/1997, ngày cấp 06/9/2022, nơi cấp: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an.
Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trịnh Hoàng T nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST
Số hiệu: | 57/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về