Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2023/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Phi L, sinh ngày 30/3/1987 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 43, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Phi H (chết) và bà Đinh Thị Kim T, có vợ là Trần Thị Anh Đ và 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 17/02/2012 bị UBND thành phố Đà Nẵng đưa và trung tâm Giáo dục dạy nghề 05 – 06 để quản lý, cai nghiện trong thời gian 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Chấp hành xong ngày 02/5/2012).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 02/4/2023. Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị T, sinh năm 1988; Trú tại: Tổ 27, phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 02/4/2023, Trần Phi L đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên L sử dụng điện thoại sim số 0932xxxx75 gọi đến số 090xxxx685 của Mai Thúy A (đã bị bắt trong vụ án khác) mua ma túy nhưng A không nghe máy. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, A sử dụng điện thoại sim số 0932xxxx84 gọi vào số điện thoại 0932xxxx75 của L thì L hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, A đồng ý và hẹn đến nhà A tại tổ 42, phường H, quận N để giao nhận ma túy.

Khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày, L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Daehan, BKS: 75F6-xxxx đến nhà gặp A để lấy ma túy và đưa 300.000 đồng rồi điều khiển xe về nhà. Khi đi đến khu vực ngã tư đường M - V, thuộc phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng thì L bị Đội Cảnh sát Điều tra về ma túy - Công an quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật tạm giữ của Trần Phi L:

- 01 gói nilon bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng. Niêm phong, ký hiệu L1.

- 01 ĐTDĐ hiệu Oppo màu đen, gắn sim số 0932xxxx75.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Daehan, BKS: 75F6-xxxx.

* Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Phi L tại K92/15, đường T, tổ 43, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng không thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội.

Tiến hành thử test ma túy đối với Trần Phi L cho kết quả dương tính với chất ma túy. L khai nhận đã sử dụng ma túy đá vào tối ngày 01/4/2023, nguồn ma túy sử dụng là do L mua của Mai Thúy A vào ngày 29/3/2023 với giá 500.000 đồng với cách thức giao dịch như lần bị bắt quả tang.

Theo Kết luận giám định số 295/KL-KTHS ngày 07/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng:

“Tinh thể rắn màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu L1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu L1:0,290 gam.

Tại bản Cáo trạng số 46/CT -VKS - NHS ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Phi L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 đến 03 năm tù. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng là ma túy, bao vỏ hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước điện thoại di động hiệu Oppo thu giữ của bị cáo.

Bị cáo Trần Phi L khai nhận bản thân là người nghiện ma túy, vào ngày 02/4/2023 bị cáo liên hệ với Mai Thúy A để hỏi mua 300.000đ ma túy đá. Sau khi thống nhất với nhau về việc mua bán, khoảng 18 giờ 10 phút cùng ngày, L điều khiển xe mô tô đến nhà A để lấy ma túy và đưa 300.000 đồng rồi điều khiển xe về nhà. Khi đi đến khu vực ngã tư đường M - V, thuộc phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng thì bị bắt quả tang đúng như nội dung cáo trạng đề cập. Do đó, về mặt tội danh, điều luật Viện kiểm sát truy tố và đề nghị áp dụng tại phiên tòa là phù hợp, bị cáo không có ý kiến gì. Về thủ tục tố tụng, bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thị T vắng mặt nhưng đã có lời khai tại hồ sơ vụ án phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và khai nhận của bị cáo Trần Phi L tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo cũng như người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định Cáo trạng số 46/CT-VKS-NHS ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Phi L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2012 từng bị UBND thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện tập trung nhưng bị cáo không lấy đó làm bại học mà tiếp tục phạm tội. Do đó đối với bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đồng thời làm gương cho người khác.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Song xét mức hình phạt 02 đến 03 năm tù như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử thấy việc xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và vấn đề liên quan trong vụ án:

[ 5.1] Đối với bà Lê Thị T là chủ sở hữu xe mô tô hiệu Deahan BKS 75F6 - xxxx có cho bị cáo mượn xe để đi lại, bà T không biết việc bị cáo sử dụng phương tiện này để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập trách nhiệm của bà T là phù hợp, Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5.2] Đối với đối tượng Mai Thúy A là người bán ma túy cho Trần Phi L hiện đã bị Cơ quan Điều tra khởi tố, điều tra trong vụ án khác (nhưng vì lý do thời hạn điều tra vụ án này đã kết thúc trước khi khởi tố đối với Mai Thúy A nên Cơ quan Điều tra không nhập vụ án) do đó trong vụ án này Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét hành vi của Mai Thúy A.

[5.3] Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Trần Phi L còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan Công an quận Ngũ hành Sơn đã xử phạt hành chính là phù hợp, Trần Phi L cũng không có ý kiến khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với vật chứng là xe mô tô hiệu Deahan BKS 75F6-xxxx do bị cáo mượn của bà Lê Thị T để đi lại, bà T không biết trước việc phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho bà T là phù hợp, bà T không có ý kiến gì thêm, Viện kiểm sát không tiếp tục đề cập nên HĐXX không xem xét.

[6.2] Đối với vật chứng là điện thoại di động hiệu Oppo màu đen gắn sim 0932xxxx75 là phương tiện bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6.3] Đối với ma túy và bao bì gói ma túy xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Phi L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Trần Phi L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam – 02/4/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm 01 bì niêm phong đựng mẫu hoàn trả sau giám định theo kết luận giám định số 295/KLMT-KTHS ngày 07/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng (Gồm 0,18 gam mẫu L1 và toàn bộ vỏ bao gói);

* Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, gắn sim 0932.xxx.675 thu giữ của bị cáo Trần Phi L (Niêm phong có dấu giáp lai của Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn) (Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/7/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn và Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng).

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Phi L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

Số hiệu:57/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về