Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2021/HS-ST

Ngày 02 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh P, sinh năm 1985, tại huyện H, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp Q, xã V, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Trần Văn T, sinh 1939 (chết) và bà Voòng Lìn D, sinh 1953; Anh, chị, em: 02 người, lớn sinh năm 1975, nhỏ sinh năm 1977; Vợ: Nguyễn Thị Nu K, sinh năm 1993 (chưa đăng ký kết hôn); Con: 04 người, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền sự: Không; Có 01 tiền án: Ngày 30/9/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử 01 năm 04 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/6/2020; Nhân thân: Ngày 19/01/2006 bị Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc (nay là thành phố Sa Đéc) xử phạt 01 năm tù về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 01/4/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc (nay là thành phố Sa Đéc) xử phạt 01 năm 03 tháng tù về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 10/01/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc (nay là thành phố Sa Đéc) xử phạt 03 năm 06 tháng tù về hành vi “Cướp giật tài sản” (Tất cả đã được xóa án tích); Tạm giữ: Ngày 04/6/2021; Tạm giam: Ngày 13/6/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, (có mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Khóm G, phường L, thành phố X, tỉnh Đồng Tháp; Tạm trú: Khóm B, phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp, (vắng mặt)

2. Anh Lê Danh B1, sinh năm 1988; Địa chỉ: Ấp T1, xã H1, huyện V1, tỉnh Đồng Tháp. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh P là người nghiện ma túy. Vào ngày 03/6/2021, P điện thoại cho một thanh niên tên T2 (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua một bịch ma túy với giá 2.500.000 đồng, T2 đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại Nhà hoả táng thuộc xã D1, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, P điều khiển xe mô tô biển số 66P2-208.91 đến điểm hẹn, T2 đưa cho P một gói thuốc lá hiệu “Jet” bên trong có 01 bịch ma túy, P trả cho T2 số tiền 2.500.000 đồng rồi cất gói thuốc lá có bịch ma túy vào túi quần đang mặc.

Sau đó, P điều khiển xe chạy về nhà, khi đến Trạm biến điện thuộc khóm K1, Phường I, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra, P chạy tiếp một đoạn đến cây xăng Phường I, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp mới dừng xe lại, sợ bị phát hiện nên P dùng tay phải móc gói thuốc lá có chứa ma túy trong túi quần bỏ xuống đường thì lực lượng Công an phát hiện lập biên bản quả tang, thu giữ của P gồm:

- 01 bịch nylon màu trắng có nắp kẹp một đầu màu đỏ bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy), 01 gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng.

- 01 xe mô tô hiệu Wave màu xanh biển số 66P2-208.91, bên trong cốp xe gồm có: 01 cây cân điện tử, 01 hộp quẹt gas màu đỏ, 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; số tiền 1.250.000 đồng; 01 điện thoại di động Samsung màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen.

Tại bản kết luận giám định số 565/KL-KTHS ngày 05/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

1. Trên mẫu vật cần giám định ký hiệu A phát hiện được 01 dấu vết đường vân đủ yếu tố giám định.

2. Dấu vết đường vân trên mẫu vật cần giám định ký hiệu A với dấu vân tay in trên ô ngón nhẫn trái chỉ bản ghi họ tên Trần Thanh P, sinh năm: 1985, nơi cư trú: Ấp Q, xã V, huyện C, tỉnh Đồng Tháp ký hiệu M do cùng một người in ra.

Tại bản kết luận giám định số 566/KL-KTHS ngày 06/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

- Tinh thể rắn chứa trong 01 bịch nylon dạng nắp kẹp một đầu kẹp có viền màu đỏ để trong bao thuốc lá hiệu Jet, được niêm phong trong túi niêm phong mã số NS3A-089083 gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 7,188 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKSTPSĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc đã truy tố bị cáo Trần Thanh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố, phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thanh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, về hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thanh P mức án từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng. Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng và các vấn đề khác theo quy định pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến bào chữa, tranh luận; xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng là đúng quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang được lập lúc 23 giờ 30 phút ngày 03/6/2021 của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy thuộc Công an thành phố Sa Đéc, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, phù hợp với kết luận giám định số 566/KL-KTHS ngày 06/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/6/2021 tại trước Trạm biến điện thuộc khóm K1, Phường I, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp, Trần Thanh P có hành vi cất giấu 01 bịch ma túy có khối lượng 7,188 gam, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

[3] Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được rằng ma túy là chất cấm thuộc danh mục quản lý độc quyền của Nhà nước, chỉ được tàng trữ, sử dụng... trong lĩnh vực y học và phải được sự cho phép của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Bản thân bị cáo đã từng nhiều lần vi phạm pháp luật, trong đó có 01 lần bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến nay chưa được xóa án tích, trong thời gian chấp hành hình phạt, bị cáo đã được tạo điều kiện để cai nghiện ma túy, cũng như giáo dục, cải tạo để bị cáo trở thành người công dân tốt, biết tuân thủ pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội. Lẽ ra, sau khi chấp hành hình phạt trở về, bị cáo phải biết từ bỏ ma túy, làm lại cuộc đời, cố gắng lao động để phục vụ cho nhu cầu bản thân và chăm lo cho con cái, thế nhưng với tư tưởng xấu, chỉ biết nghĩ cho bản thân, bị cáo chẳng những không từ bỏ mà còn tiến sâu hơn vào con đường nghiện ngập. Ngày 03/6/2021 bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép một bịch ma túy để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, khối lượng ma túy khi bị bắt quả tang là 7,188 gam, loại Methamphetamine. Do đó, hành vi của bị cáo là đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ………

c) ... Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

2. Phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm

a) ………

g) ...Methamphetamine... có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30gam;

…………”

[4] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, động cơ mục đích phạm tội nhằm để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Nhằm trốn tránh sự phát hiện của người khác và cơ quan chức năng bị cáo đã chọn thời điểm hẹn giao ma túy vào ban đêm, địa điểm tại Nhà hỏa táng xã D1 là nơi vắng vẻ, ít người qua lại, khi bị Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra, bị cáo cố tình chạy thêm một đoạn để tìm cách phi tang. Thế nhưng với sự cảnh giác cao và tinh thần đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Công an thì hành vi của bị cáo dù có tinh vi, xảo quyệt đến đâu cũng sẽ bị phát hiện và bị bắt quả tang.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi đó là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác như: trộm cắp, cướp giật, ... góp phần làm gia tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy trong xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt, tu dưỡng bản thân, có ý thức chấp hành pháp luật, nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hiện nay gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, lần phạm tội tái phạm, nên cần phải áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xem xét trong việc quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì; 01 gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng; 01 cây cân điện tử, 01 hộp quẹt gas màu đỏ, 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng là vật cấm tàng trữ, lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Samsung màu xanh gắn sim số 0702 839 841, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen và số tiền 1.250.000 đồng của bị cáo, tuy không liên quan đến hành vi phạm tội, nhung cần tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[11] Đối với phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật, nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo Trần Thanh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[13] Các vấn đề khác:

- Đối với người thanh niên tên T2 (không rõ họ tên, địa chỉ) bán ma túy cho chop. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lí sau.

- Đối với xe mô tô biển số 66P2- 208.91 là do P mượn của ông Nguyễn Văn N sử dụng. Ông N không biết P sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc đã trả xe cho ông N nhận lại xong.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh P mức án 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2021 (ngày tạm giữ).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì, ghi niêm phong số: 596, ghi ngày 04/6/2021, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, có chữ ký ghi họ tên Trần Thanh P và giám định viên Lê Minh V2, Đinh Nhựt D2 và điều tra viên Nguyễn Quang V3.

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet được niêm phong trong phong bì có đóng dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và các chữ ký ghi họ tên Đinh Nhựt D2, Trần Hữu P1.

+ 01 cây cân điện tử đã qua sử dụng chưa kiểm tra chất lượng bên trong.

+ 01 hộp quẹt gas màu đỏ.

+ 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung màu xanh có gắn sim số 0702 839 841.

- Tiếp tục quản lý:

+ 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử dụng được niêm phong có chữ ký của Trần Thanh P.

+ Số tiền 1.250.000 đồng Để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

(Hiện tiền và các vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2021).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thanh P nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày hôm nay tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2021/HS-ST

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về