TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2023/HSST-QĐ ngày 19 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Chu Thế D Tên gọi khác: Không Sinh năm: 1977 tại tỉnh Điện Biên.
Nơi cư trú: Bản X, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Con ông: Chu Hồng T (đã chết) và con bà: Vũ Thị V; Có vợ: Nguyễn Thị N (đã chết) và có 03 (Con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2016); Tiền án: 01 tiền án về tội Cố ý gây thương tích, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC ngày 13/9/2017 bị cáo bị Công an phường N, thành phố Điện Biên Phủ xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành quyết định được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị tạm giữ từ ngày 09/9/2023 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 00 phút ngày 09/9/2023, tổ công tác Công an phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản X, phường N, phát hiện Chu Thế D đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, D tự giác giao nộp 01 gói được gói ngoài bằng mảnh giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa 01 cục chất bột thể rắn, màu trắng đục đang cầm trong lòng bàn tay trái. D khai nhận đó là ma túy (Heroine), D mua về để sử dụng cho bản thân.
Quá trình điều tra Chu Thế D khai nhận: Số ma túy bị thu giữ D vừa mua của người đàn ông không quen biết ở khu vực cánh đồng Bản X, phường N với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cầm trong lòng bàn tay trái của mình rồi đi về thì bị phát hiện.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói bên trong có chứa các cục chất bột thể rắn, màu trắng đục, khối lượng 0,16 gam.
Tại bản kết luận giám định số 1386/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng là 0,16 gam. Mẫu cục chất bột màu trắng đục gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroin (Heroine). Hoàn lại đối tượng giám định có tổng khối lượng 0,1 gam có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.
Tại bản cáo trạng số 202/CT-VKSTPĐBP ngày 28/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Chu Thế D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 17 đến 20 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine là vật chứng hoàn lại sau giám định và 01 mảnh giấy bạc màu trắng.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, bị cáo không bào chữa gì cho hành vi của mình.
Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 08 giờ 00 phút ngày 09/9/2023 tại khu vực Bản X, phường N, thành phố Đ, Chu Thế D đã có hành vi cất giấu trái phép 0,16 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy t ố đôi vơi b ị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 104/1999/HS-ST ngày 23/9/1999 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Bị cáo kháng cáo, tại Bản án số 26/HS- PT/1999 ngày 03/11/1999 Tòa án nhân dân tỉnh Đ tuyên xử bị cáo 24 tháng tù. Bị cáo chưa thi hành phần bồi thường dân sự nên chưa được xóa án tích. Nay bị cáo lại phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Ngoài ra, bị cáo có bố được tặng thưởng huân chương kháng chiến nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Năm 1999 đã bị xét xử về tội Cố ý gây thương tích chưa được xóa án tích. Sau đó, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC ngày 13/9/2017 bị cáo bị Công an phường N, thành phố Đ xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong quyết định được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên do thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân nên vẫn không từ bỏ được ma túy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.
Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.
[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:
Đối với 0,16 gam Heroine thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ giám định còn lại 0,1 gam - vật chứng còn lại của vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ; 01 mảnh giấy bạc là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
[5]. Các vấn đề khác: Đối với đối tượng bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.
[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 331, 333, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Thế D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chu Thế D 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (09/9/2023).
2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định và 01 mảnh giấy bạc màu trắng. (Đã niêm phong) - (Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11 /2023).
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/12/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2023/HS-ST
Số hiệu: | 56/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về