Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HOÁ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 28/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/11/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2022/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST-HS ngày 14/11/2022 đối với bị cáo: Họ và tên:

Trần Văn Ch (Không có tên gọi khác). Sinh ngày 12/10/1990 tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên Nơi cư trú: Xóm NT, xã PĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Sán Chỉ; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C, sinh năm: 1945 và con bà Hầu Thị T, sinh năm: 1959; vợ: Đỗ Thị H, sinh năm 1992, có 03 con: lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2021;

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại Bản án số 70/2013/HSST ngày 30/7/2013. Bị can đã chấp hành xong bản án năm 2016, đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/8/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt) * Người chứng kiến:

1. Anh Phương Đình N, sinh năm: 1980. Nơi cư trú: Xóm NT, xã PĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

2. Ông Chu Văn B, sinh năm: 1962. Nơi cư trú: Xóm TT, xã PĐ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 16/8/2022, tổ công tác Công an xã PĐ, huyện Đ đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại đoạn đường thuộc xóm NT, xã PĐ, huyện Đ thì phát hiện Trần Văn Ch có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra Ch tự giác giao lấy từ túi quần bên phải phía trước của Ch đang mặc giao nộp cho cơ quan Công an 01 gói chất bột màu trắng được bọc bên ngoài bằng lớp giấy bạc màu vàng, Ch khai nhận là ma túy, loại Heroine, Ch mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn Ch, niêm phong số chất bột màu trắng nghi là ma túy thu giữ của Ch ký hiệu là A1 và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ để giải quyết theo thẩm quyền Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo, không phát hiện, thu giữ được gì liên quan đến tội phạm.

Mở niêm phong, cân xác định trọng lượng 01 gói chất bột màu trắng thu giữ trên người bị cáo có trọng lượng 0,699 (không phẩy sáu chín chín) gam, niêm phong lại ký hiệu A2.

Tại Bản kết luận giám định số 1282/KL-KTHS ngày 24/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Trần Văn Ch niêm phong trong phong bì kí hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy; loại Heroine, có khối lượng là: 0,699 (không phẩy sáu chín chín) gam.

Hoàn lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,684 (không phẩy sáu tám tư) gam và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong bì ký hiệu A2.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận. Khoảng 11 giờ ngày 16/8/2022, Ch đi xe buýt số 30 từ nhà tại xóm NT, xã PĐ, huyện Đ ra khu vực ngã ba xã Bình Yên, huyện Đ để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực ngã ba Bình Yên, Ch xuống xe buýt và đi bộ về hướng xã Điềm Mặc, huyện Đ. Tại đây, Ch gặp và hỏi mua Heroine của một người đàn ông không quen biết khoảng 30 tuổi, đeo khẩu trang, đội mũ (Ch không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ). Người đàn ông đó đồng ý và đưa cho Ch 01 gói Heroine được gói bằng lớp giấy bạc màu vàng, Ch đưa cho người đàn ông đó 400.000đ. Sau khi mua được Heroine, Ch cầm lấy gói Heroine cất vào túi quần bên phải đang mặc trên người và bắt xe buýt để đi về nhà tại xã PĐ. Khi đến khu vực xóm NT bị tổ công tác Công an xã PĐ, huyện Đ phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 59/CT - VKSĐH ngày 26/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo ra xét xử về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Ch khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất, nội dung, hành vi phạm tội, hậu quả và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ch phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1,2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ch từ 30 (ba mươi) tháng tù đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong có 0,684 (Không phẩy sáu tám tư) gam ma túy, loại Heroine và vỏ bao gói còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu là A3 bên trong là vỏ phong bì niêm phong vật chứng và 01 mảnh giấy bạc màu vàng khi bắt quả tang của Trần Văn Ch.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Phần tranh luận, đối đáp: Bị cáo không có tranh luận, bào chữa gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của người chứng kiến ông Chu Văn Bình và anh Phương Đình Nhật: Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia tố tụng nhưng người chứng kiến vẫn vắng mặt. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về sự vắng mặt của họ, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị xét xử vắng mặt ông Bình và anh Nhật. Quá trình điều tra, ông Bình và anh Nhật không có khiếu nại gì đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia nên việc vắng mặt ông Bình và anh Nhật tại phiên tòa không gây trở ngại cho việc xét xử, không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người chứng kiến theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3]. Về tội danh và điều luật áp dụng:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, vị trí, về số Heroine bị cáo đang tàng trữ bị thu giữ. Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác Cơ quan điều tra đã thu thập được khách quan có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận:

Do nghiện ma túy và với mục đích mua ma túy để sử dụng nên khoảng 11 giờ ngày 16/8/2022, Ch đi xe buýt số 30 từ nhà tại xóm NT, xã PĐ, huyện Đ ra khu vực ngã ba xã Bình Yên, huyện Đ. Tại đây, bị cáo đã gặp và mua của một người đàn ông không quên biết 01 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng. Sau đó, bị cáo cất vào túi quần bên phải đang mặc trên người và bắt xe buýt để đi về nhà tại xã PĐ thì bị tổ công tác Công an xã PĐ, huyện Đ phát hiện, bắt quả tang. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong 01 gói chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 và giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Định Hoá giải quyết theo thẩm quyền.

Cân xác định trọng lượng 01 gói chất bột màu trằng thu giữ trên người bị cáo có trọng lượng 0,699 (không phẩy sáu chín chín) gam, niêm phong trong phong bì ký hiệu A2.

Tại Bản kết luận giám định số 1282/KL-KTHS ngày 24/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Trần Văn Ch niêm phong trong phong bì kí hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy; loại Heroine, có khối lượng là: 0,699 (không phẩy sáu chín chín) gam.

Hoàn lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,684 (không phẩy sáu tám tư) gam và vỏ bao gói mẫu được niêm phong trong bì ký hiệu A2.

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi đã thực hiện như lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi nêu trên của bị cáo Ch đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam” Do đó bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn ở trên và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4]. Xét tính chất, hậu quả hành vi của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma tuý. Hành vi của bị cáo hủy hoại sức khỏe của bản thân, vi phạm pháp luật, thực hiện với lỗi cố ý, cần được xử lý nghiêm minh.

[5]. Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Bị cáo là người nghiện ma túy. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo có bố đẻ là thương binh và được tặng thưởng huân chương chiến sĩ giải phóng hạng 3 vì vậy, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, sau khi đánh giá toàn diện về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 70/2013/HSST ngày 30/7/2013. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống Ch trong xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa Ch trong xã hội. Mức hình phạt tù vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, cần được xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo nhằm phục vụ nhu cầu nghiện hút của cá nhân, bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị, việc áp dụng hình phạt bổ sung là không khả thi, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

01 phong bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong có 0,684 (không phẩy sáu tám bốn) gam ma túy, loại Heroine và vỏ bao gói còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu là A3 bên trong là vỏ phong bì niêm phong vật chứng và 01 mảnh giấy bạc màu vàng cần tịch thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số ma tuý loại Heroine bị thu giữ, Trần Văn Ch khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực ngã ba xã Bình Yên, huyện Đ, bị cáo không biết họ tên và địa chỉ nên không có đủ cơ sở để xác minh xử lý, khi nào xác định được đối tượng sẽ xử lý sau.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ch phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Văn Ch 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 16/8/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Văn Ch.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28/11/2022 để bảo đảm cho việc thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong kí hiệu A2 bên trong có 0,684 (không phẩy sáu tám bốn) gam ma túy, loại Heroine và vỏ bao gói còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu là A3 bên trong là vỏ phong bì niêm phong vật chứng và 01 mảnh giấy bạc màu vàng thu giữ của Trần Văn Ch.

(Tình trạng vật chứng như tại Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 27/10/2022 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135,136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Bị cáo Trần Văn Ch phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về