Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An xét xử sơ thẩm công khai (theo hình thức trực tuyến) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử  số 52/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Lệnh Ngọc T, sinh ngày 18 tháng 01 năm 1991 tại Hà Nam. Nơi cư trú: Số 13/229 H, phường H, Quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lệnh Ngọc S và bà Đinh Thị T; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23 tháng 6 năm 2022, đến ngày 27 tháng 6 năm 2022 chuyển tạm giam. Có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Ngọc H. Vắng mặt.

2. Anh Hoàng Đức V. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22 tháng 6 năm 2022, Lệnh Ngọc T thuê xe taxi đi từ nhà đến khu vực đường tàu T thuộc Quận L, thành phố Hải Phòng để mua ma túy. Tại đây, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 06 viên ma túy thuốc lắc và 02 túi ma túy Ketamine (kích thước mỗi túi khoảng 02cmx02cm) với giá 3.600.000 đồng. Sau đó, T cất số ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi thuê xe taxi đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đi bộ đến khu vực ngõ 508 đường L, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng thì bị Tổ công tác thuộc Phòng phòng chống tội phạm ma túy - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp với Đoàn trinh sát số 1 - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và Công an phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc 06 viên nén màu xanh (mẫu số 1) và hai túi nilon kích thước khoảng  02cmx02cm trong chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 2). Tổ công tác đã đưa T cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an phường Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 300/KL-KTHS(MT) ngày 23 tháng 6 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 06 viên nén màu xanh của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,98 gam, là loại MDMA; tinh thể màu trắng của mẫu số 2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng  1,65 gam, là loại Ketamine.

Bản cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 12 tháng 9 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Lệnh Ngọc T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An giữ quyền công tố luận tội:

Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lệnh Ngọc T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 21 tháng đến 27 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một bì giấy có dấu hiệu niêm phong số 300MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng bên trong có số ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp  luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lệnh Ngọc T nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Lệnh Ngọc T tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại khu vực ngõ 508 đường L, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng, bị cáo bị bắt quả tang đang cất giữ, cất giấu bất hợp pháp trong túi quần phía trước bên phải đang mặc 06 viên nén màu xanh, theo kết luận giám định là ma túy, có khối lượng 1,98 gam, là loại MDMA và hai túi nilon kích thước khoảng 02cmx02cm trong chứa tinh thể màu trắng, theo kết luận giám định là ma túy, có khối lượng 1,65 gam, là loại Ketamine. MDMA là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong đời sống xã hội nằm trong Danh mục I, số thứ tự 27; Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, số thứ tự 35 ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

[3] Việc cất giữ, cất giấu chất ma túy của bị cáo không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Tại thời điểm thực hiện hành vi nêu trên, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất MDMA với khối lượng 1,98 gam và chất Ketamine với khối lượng 1,65 gam là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi. Tỷ lệ phần trăm về khối lượng của MDMA là 39,6% (1,98 gam so với 05 gam), tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Ketamine là 8,25% (1,65 gam so với 20 gam), tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của hai chất ma túy là 47,85%. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xét xử nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về hình phạt chính: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xét thấy cần xử bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: MDMA và Ketamine là chất ma túy cấm lưu hành; vì vậy, tịch thu tiêu hủy bì giấy sau giám định bên trong có chứa chất MDMA và Ketamine.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, qua điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lệnh Ngọc T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 23 tháng 6 năm 2022.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Lệnh Ngọc T.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy một bì giấy có dấu niêm phong số 300MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 9 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lệnh Ngọc T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên  án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30  Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về