Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 56/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn S, sinh ngày 19/01/1994 tại xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa (học vấn) 10/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Sự, sinh năm: 1966 và bà Quách Thị Ba, sinh năm: 1972; vợ con: chưa có.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình từ ngày 17/8/2020, được trích xuất và có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

+ Bùi Văn Ng, sinh năm 1977. Nơi cư trú: xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt;

+ Bùi Văn Th, sinh năm 1990. Nơi cư trú: xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/8/2020 Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình tiến hành triệu tập đối tượng Bùi Văn S, sinh năm 1994, trú tại xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình về việc S thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 11 giờ 05 phút cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn và Công an xã Q đến gia đình Bùi Văn S để xác minh thì phát hiện tại túi quần phía sau bên phải mà S đang mặc có 01 hộp nhựa hình trụ bên trong có 02 gói giấy và 01 gói nilon bên trong đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng( S khai nhận là ma túy). Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn S, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã thu giữ tại ngăn dưới bàn thờ của gia đình S 01 gói giấy bên trong có chứa bột dạng cục màu trắng( S khai nhận là ma túy). Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng thu giữ được theo đúng quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Văn S đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình và khai về nguồn gốc số ma túy do Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang và khám xét nơi ở của S ngày 17/8/2020 cụ thể như sau: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 16/8/2020, Bùi Văn S, một mình đi nhờ xe máy của một người đi đường không quen biết đi đến khu vực thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình để tìm mua ma túy và mua được 01 gói ma túy với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của một người đàn ông không quen biết, không rõ đặc điểm nhận dạng. Mục đích S mang ma túy về nhà để sử dụng cho bản thân. Về đến nhà S lấy một phần ma túy ra sử dụng, phần còn lại S chia nhỏ gói trong 02 gói giấy và 01 gói nilon cất dấu trong 01 hộp nhựa hình trụ và 01 gói giấy cất dấu tại ngăn dưới bàn thờ của gia đình.

Ngày 17/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã ra Quyết định trưng cầu giám định gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình giám định 03 (ba) gói giấy và 01 gói nilon chứa chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong trong 02 phong bì ghi tên Bùi Văn S.

Tại bản Kết luận giám định số 252/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 24/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình đã kết luận: “Các mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong 02 (hai) phong bì niêm phong ghi tên Bùi Văn S trong quá trình bắt quả tang và khám xét cẩn cấp chỗ ở gửi giám định có tổng khối lượng 0,3492 gam, là ma túy, loại Heroine”.

Quá trình điều tra, bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với vật chứng thu giữ được.

Theo Bản cáo trạng 55/CT-VKS ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Thực hành quyền công tố tại phiên toà: đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đồng thời đề nghị HĐXX: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng của vụ án gồm: 04 (bốn) mẫu ma túy, loại heroine (Phong bì 1: Gói 1:

0,02g; Gói 2: 0,01g; Gói 3: 0,15g; Phong bì 2: 0,005g ) còn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ bao gói đã được niêm phong theo quy định đề nghị tịch thu tiêu hủy theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo trong vụ án do không rõ tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng nên chưa có căn cứ để xác minh và kết luận đề nghị khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định.

Bị cáo không có lời bào chữa, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo Bùi Văn S tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai của những người chứng kiến, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Do vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 05 phút, ngày 17/8/2020 tại xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, Bùi Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy (bị bắt quả tang và khám xét khẩn cấp nơi ở) với tổng khối lượng là 0,3492 gam (Không phẩy ba nghìn bốn trăm chín mươi hai gam) chất ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Văn S là nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện- lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo là con một trong gia đình; là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Những tình tiết giảm nhẹ trên theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần được xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong quá trình lượng hình.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo; Căn cứ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện không những làm huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[7] Về vật chứng của vụ án gồm: 04 (bốn) mẫu ma túy, loại heroine (Phong bì 1: Gói 1: 0,02g; Gói 2: 0,01g; Gói 3: 0,15g; Phong bì 2: 0,005g ) còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy theo qui định tại Điều 47 bộ luật hình sự và Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do không rõ tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng, chưa có căn cứ để xác minh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 15( Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ- ngày 17/8/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 04 (bốn) mẫu ma túy, loại heroine (Phong bì 1: Gói 1: 0,02g; Gói 2: 0,01g; Gói 3: 0,15g; Phong bì 2: 0,005g ) còn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ bao gói đã được niêm phong trong 02 phong bì ghi tên đối tượng: Bùi Văn S.

(Các vật chứng nêu trên hiện được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn theo đúng mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng và phiếu nhập kho ngày 30/11/2020).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2020/HS-ST

Số hiệu:56/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về