Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 54/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 05 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2023/TLST-HS, ngày 12 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2023/QĐXXST- HS, ngày 21 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn G, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1977 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T (tên gọi khác: Nguyễn Đức T1), sinh năm 1954 và bà Vũ Thị P, sinh năm 1956; Anh, chị em ruột: có 04 người, bị cáo là thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không

Nhân thân:

+ Bản án số 08/2010/HSST ngày 26/02/2010 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Nguyễn Văn G 04 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ, lưu hành tiền giả, phạt tiền 10.000.000đ sung quỹ nhà nước, phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 07/12/2010, G nộp tiền án phí và 5.000.000 đồng hình phạt bổ sung, số tiền còn lại được miễn giảm nghĩa vụ thi hành án (theo Quyết định đình chỉ số 72 ngày 26/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).

+ Bản án số 20/2010/HSST ngày 09/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Văn G 03 năm tù về tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm (đã nộp ngày 09/9/2010).

Ngày 01/11/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định tổng hợp Bản án số 54/2010/QĐ-CA, tổng hợp Bản án số 08 ngày 26/02/2010 của TAND huyện S, tỉnh Tuyên Quang và Bản án số 20 ngày 09/8/2010 của TAND huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, tổng hình phạt 07 năm 06 tháng tù. Đến ngày 04/4/2016, G chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 10/01/2023, Nguyễn Văn G điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88L1-S.22 (Xe mô tô G mua của một người không xác định được tên, tuổi, địa chỉ tại huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) đến khu vực xã Quang Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc đi làm bốc gỗ thuê. Khoảng 11 giờ cùng ngày, G đi làm về thì gặp và mua của một người đàn ông không xác định được tên tuổi, địa chỉ đứng ở lề đường khu vực xã Quang Yên được 02 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). G cất ma túy vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi đến khu vực vắng người (thuộc xã Quang Yên) và lấy một phần trong 01 gói ma túy vừa mua được để sử dụng. Sau đó, G đi về đến đoạn đường bê tông thuộc thôn Gia Cát, xã Phú Lương, huyện S, tỉnh Tuyên Quang thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện S kiểm tra, phát hiện vi phạm và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 11 giờ 45 phút cùng ngày tại Ủy ban nhân dân xã Phú Lương. G tự giác giao nộp 02 (hai) gói bên ngoài được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong cả hai gói đều chứa chất bột vón cục màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha, màu sơn xanh, biển kiểm soát 88L1-S.22, số máy HC 09E6574495.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Văn G, kết quả (+) dương tính với ma túy.

Kết luận giám định số 155/KL-KTHS ngày 15/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng 0,198g (Không phẩy một chín tám gam).

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, màu sơn xanh, biển kiểm soát 88L1- S.22 và 01 phong bì bên trong chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Nguyễn Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Tại Cáo trạng số 65/CT-VKSSD, ngày 11/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố Nguyễn Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn G từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (10/01/2023).

- Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có chứa chất ma túy; Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1-S.22 nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất. Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 10/01/2023, tại đường bê tông thuộc thôn Gia Cát, xã Phú Lương, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn G đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,198 gam (Không phẩy một chín tám gam) Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân Nguyễn Văn G có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi tàng trữ 0,198 gam (Không phẩy một chín tám gam) ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng với lỗi cố ý. Khối lượng ma túy Nguyễn Văn G tàng trữ trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 5 gam).

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố đối với bị cáo G là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo để có mức án phù hợp.

[3] Về quyết định hình phạt đối với bị cáo:

- Hình phạt chính: HĐXX thấy rằng, bị cáo Nguyễn Văn G là người đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng. Xét nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định (tù có thời hạn) mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Mức đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

- Hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định nghề nghiệp bị cáo là làm ruộng, không có thu nhập ổn định, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Quá trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do Luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Về vật chứng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 (một) phong bì bên trong có chứa chất ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Nguyễn Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1-S.22.

- Đối với 01 (một) phong bì bên trong có chứa chất ma túy đã được niêm phong. Xét thấy đây là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1-S.22, xác định bị cáo thường xuyên sử dụng làm phương tiện đi lại cho bản thân nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo và các vấn đề khác.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn G, Công an huyện S đã chuyển các tài liệu liên quan đến Công an huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc để xử lý theo quy định. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người đàn ông theo G khai nhận là người bán ma túy cho G tại khu vực xã Quang Yên, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Do không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 88L1-S.22, qua xác minh xác định chủ sở hữu xe là chị Nguyễn Thị Yên, sinh năm 1978, cư trú tại thôn Kim Xa, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, chị Yên đã bán xe mô tô trên cho một người không nhớ được tên, tuổi ở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2015.

Qua tra cứu thì chiếc xe mô tô trên không trùng với dữ liệu xe trên hệ thống "Xe vật chứng toàn quốc". Nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (10/01/2023).

3. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì bên trong có chứa chất ma túy đã được niêm phong, bên ngoài phong bì có chữ ký của Nguyễn Văn G và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, màu sơn xanh, biển kiểm soát 88L1-S.22, xe cũ đã qua sử dụng nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 54/2023/HS-ST

Số hiệu:54/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về