Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2022/TLST - HS ngày 01/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức Th, sinh năm 1970.

ĐKHKTT và chỗ ở: Số 7/14/42 P, Khu 4, phường C, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức B và bà Đinh Thị D (đã chết); Có vợ là Vũ Thị H, sinh năm 1975 và 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2005.

Tiền sự: Không Tiền án:

- Bản án số 146 ngày 10/8/2018 của Toà án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Đánh bạc (ra trại ngày 15/6/2019).

- Bản án số 69 ngày 02/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội Đánh bạc (ra trại ngày 20/12/2020).

Nhân thân:

- Bản án số 16/1991/HSST ngày 23/4/1991 Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thách 18 tháng về tội Hủy hoại tài sản.

- Bản án số 62/1992/HSST ngày 17/7/1992, Tòa án nhân dân thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân và tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án HSST số 16 ngày 23/4/1991, buộc chấp hành chung là 18 tháng tù (chấp hành xong ngày 13/5/1998).

- Bản án số 83/1994/HSST ngày 06/5/1994, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Hưng (nay là tỉnh Hải Dương) xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân.

- Bản án số 10/2006/HSST ngày 17/01/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản trộm cắp 800.000đ, miễn nghĩa vụ thi hành án ngày 15/6/2011).

- Ngày 20/9/2000, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc phạt tiền 500.000đ (chấp hành ngày 21/9/2000).

- Ngày 21/01/2003, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm chính về hành vi đánh bạc phạt tiền 500.000đ (chấp hành ngày 18/5/2004).

- Ngày 16/01/2014, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

- Ngày 18/3/2014, Công an phường Bình Hàn xử phạt vi phạm hành về hành vi đánh bạc, số tiền 1.500.000 đồng, đã nộp ngày 18/3/2014.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/01/2022, chuyển tạm giam từ ngày 22/01/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Hải Dương. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Anh Trần Anh T, sinh năm 1974 Địa chỉ: Khu 11, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

- Anh Phạm Văn V, sinh năm 1987 Địa chỉ: Khu 6, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức Th có 02 tiền án chưa được xóa án tích. Vào chiều ngày 20/01/2022, Th đi bộ ra khu vực cổng Bệnh viện Quân y 7, thành phố Hải Dương mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây Th gặp một người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) và mua được 01 gói ma túy Heroine với số tiền 100.000 đồng. Sau đó Th cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 05 phút cùng ngày khi Th đi bộ đến khu vực đầu ngõ 273 Đ, phường B, thành phố Hải Dương thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Hải Dương trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Nguyễn Đức Th đang cất giấu trái phép trong túi áo khoác bên trái 01 gói giấy màu trắng có kích thước 0,5x01cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Th khai nhận đó là ma túy Heroine cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt quả tang có sự chứng kiến của anh Trần Anh T và anh Phạm Văn V.

Tại Biên bản xét nghiệm nước tiểu hồi 17 giờ 25 phút ngày 20/01/2022 xác định: Nước tiểu của Nguyễn Đức Th dương tính với ma túy, loại Heroine.

Tại Kết luận giám định số 200/KLGĐ- PC09 ngày 23/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy màu trắng được niêm phong trong phong bì ghi thu giữ của Nguyễn Đức Th gửi đến giám định có khối lượng là: 0,172g (Không phẩy một trăm bảy mươi hai gam) là ma túy, loại Heroine.

Heroine nằm trong Danh mục I, STT: 09, Nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định trả 0,144g (Không phẩy một trăm bốn mươi bốn gam) ma túy loại Heroine; 01 (một) mảnh giấy màu trắng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định.

Đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số : 200/KLGĐ – PC 09, kèm theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định.

Quá trình điều tra Nguyễn Đức Th khai nhận hành vi cất giấu trái phép 0,172 gam Heroine mục đích để sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 30/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Đức Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi cất giấu trái phép 0,172 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Th từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 20/01/2022. Hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,144 gam Heroine hoàn lại sau giám định, 01 (một) mảnh giấy màu trắng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được niêm phong trong phong bì số 200/KLGĐ - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 05 phút ngày 20/01/2022, tại khu vực đầu ngõ 273 Đ, phường B, thành phố Hải Dương; Nguyễn Đức Th có hành vi cất giấu trái phép 0,172 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm sản xuất, quản lý và sử dụng nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do bản án số 69/2020/HSST ngày 02/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Đánh bạc, bản án này xác định bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng Tái phạm, đến nay bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do v ậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng định khung hình phạt Tái phạm nguy hiểm theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Việc sử dụng ma túy còn là mầm mống làm phát sinh một số loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng nặng nề cho sức khỏe của con người và kinh tế của gia đình người sử dụng, nhưng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo vẫn cố ý sử dụng trái phép chất ma túy.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích và nhân thân rất xấu nhiều lần bị xét xử và xử phạt hành chính nhưng không lấy đó là bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: 0,144 gam Heroine, 01 (một) mảnh giấy màu trắng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về các vấn đề khác: Quá trình điều tra không làm rõ được người bán trái phép chất ma túy cho Th nên không có căn cứ xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm 0 khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí, lệ phí. Nghị quyết số 326/QH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Th 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 20/01/2022.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,144 gam Heroine là số mẫu ma tuý hoàn lại sau giám định; 01 (một) mảnh giấy màu trắng và 01 (một) vỏ phong bì hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 200/KLGĐ - PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương và và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 01/4/2022).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

515
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về