Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 534/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 534/2023/HS-PT NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 491/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo Lê Đoàn Quốc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ tên: Lê Đoàn Quốc H, tên gọi khác: Cu Một, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1994 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trọng A, sinh năm 1949 và bà Đoàn Thị T, sinh năm 1950; vợ con: chưa có. Tiền án: có 02 tiền án.

- Ngày 09/3/2015, bị Toà án nhân dân huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị xử phạt 30 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Giao cấu với trẻ em” (Bản án số 14/2015/HSST).

- Ngày 03/3/2021, bị Toà án nhân dân huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù, về tội “Tàng trữ hàng cấm”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/01/2022 (Bản án số 12/2021/HSST).

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/7/2017, bị Công an thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Sử dụng trái phép tài sản của người khác”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2022 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lý Tuấn T1 – Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: E N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt và gửi luận cứ bào chữa cho bị cáo).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/9/2022, Lê Đoàn Quốc H về thành phố Đ tìm việc làm. Khoảng 13 giờ ngày 24/9/2022, H đang ăn cơm tại một quán trên đường N, thành phố Đ thì gặp một người phụ nữ tên Q đã gặp trong một lần hát karaoke. Q đặt vấn đề nhờ H đưa giúp gói “đồ” lên H, rồi sẽ có người liên lạc và đến nhận hàng. H đồng ý và đưa số điện thoại của mình cho Q. Sau đó, Q đi khỏi quán khoảng 5-7 phút thì quay lại đưa cho H một túi ni lông màu đen, rồi Q bỏ đi trước. Qua kiểm tra bao gói bên ngoài, H nghi bên trong có chứa ma tuý. H bỏ túi ni lông màu đen vào bên trong túi ni lông màu trắng vàng rồi để lên giá để đồ trước yên xe mô tô biển kiểm soát 74H1-xxx. Sau đó, điều khiển xe lên nhà ở thôn L. Khi về đến nhà, H để gói hàng trên tủ tivi trong phòng khách. Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 25/9/2022, do không thấy người đến lấy hàng nên H lấy gói hàng ra kiểm tra. Qua sờ nắn bên ngoài bao bì, H biết bên trong là ma tuý loại hồng phiến. Do sợ người khác phát hiện, H đưa vào phòng ngủ của mình, để trên vách tường gỗ cất giấu, khoảng 5 phút sau đó thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: 01 túi ni lông màu xanh trắng vàng, bên trong có 60 túi ni lông màu xanh chứa các viên nén màu hồng và màu xanh (được niêm phong trong túi niêm phong mã số NS1A 066650).

Cùng ngày, lực lượng chức năng tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Đoàn Quốc H, phát hiện và tạm giữ: 02 túi ni lông bên trong có các viên nén màu hồng, màu xanh (được niêm phong trong túi niêm phong mã số PS2 2007266); 18 viên nén và 02 mảnh chất rắn màu hồng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu KX2), 01 ống nhựa trong suốt. Số ma tuý này H khai nhận mua của một người đàn ông tên thường gọi là “Cu” (không rõ lai lịch) đầu tháng 9/2022. Lúc đó, H đặt mua 01 gói khoảng 200 viên ma tuý tổng hợp dạng viên nén với giá 2.500.000 đồng, sau đó H đưa về nhà tại thôn L cất giữ và sử dụng dần.

Tại bản kết luận giám định số: 1035/KL-KTHS ngày 30/9/2022 của Phòng K Công an tỉnh Q xác định:

- Các viên nén màu hồng niêm phong mã số NS1A 066650 có khối lượng 1.183,25g là ma tuý loại Methamphetanine; các viên nén màu xanh có khối lượng 11,0875g không tìm thấy chất ma tuý.

- Các viên nén màu hồng niêm phong mã số PS2 2007266 có khối lượng 17,8779g là ma tuý loại Methamphetanine; các viên nén màu xanh có khối lượng 0,2746g không tìm thấy chất ma tuý.

- 18 viên nén màu hồng và 02 mảnh viên nén màu hồng niêm phong ký hiệu KX2 có khối lượng 1,8757g là ma tuý loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Đoàn Quốc H, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 39 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Đoàn Quốc H: tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/9/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 28/8/2023, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đoàn Quốc H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 18g 25 phút ngày 25/9/2022, tại nơi ở của Lê Đoàn Quốc H tại thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị, Tổ công tác Công an huyện H phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang Lê Đoàn Quốc H có hành vi tàng trữ 1.203,0036g ma tuý loại Methamphetamine (trong đó 19,7536g Methamphetamine Hùng tàng trữ nhằm mục đích sử dụng và 1.183,25g Methamphetamine H cất giấu cho người khác).

Với hành vi và số lượng ma túy bị cáo tàng trữ nêu trên, án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Đoàn Quốc H; nhận thấy: Bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 249, có khung hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Tuy trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo; nhưng xét thấy hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội; bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng rất lớn, gấp hơn 12 lần mức tối thiểu của khung hình phạt. Ngoài ra, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” và “phạm tội 02 lần trở lên” là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại h, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, nên xử phạt bị cáo mức án tù Chung thân là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không phát sinh tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên không có cơ sở để chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Đoàn Quốc H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đoàn Quốc H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 39 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Đoàn Quốc H: Tù chung thân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/9/2022.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2023/HS-ST ngày 23/8/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

3. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Đoàn Quốc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 534/2023/HS-PT

Số hiệu:534/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về