Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RG - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 53/2024/HS-ST NGÀY 25/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: A, sinh năm: 2000, nơi đăng ký thường trú: Số 492 Nguyễn Thị Định, phường VH, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê, trình độ học vấn: 10/12; giới tính: nữ, Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không. Cha: Hồ Đình Đ, sinh năm: 1975; mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1975; chồng: Nguyễn Văn H, sinh năm: 1996; con ruột: Nguyễn Gia H, sinh năm: 2019; em ruột: Hồ Quốc A, sinh năm: 2003.

Tiền án, tiền sự: không có.

Ngày 04/6/2023, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang và bị tạm giữ. Ngày 13/6/2023, bị khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 72 cùng ngày của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang. Hiện bị can đang tại ngoại tại số 492, đường Nguyễn Thị Định, phường VH, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến - Nguyễn Thị Ngọc H1-sinh năm: 1993.(vắng mặt) Cư trú: ấp H, xã MT, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

- Bùi Thái Y- sinh năm: 1994.(vắng mặt) Cư trú: ấp VT, xã VHH, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 04/6/2023, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang kết hợp với Công an phường Vĩnh Lạc tiến hành bắt quả tang A đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng số 405, quán Karaoke Luxury, tại địa chỉ số 8, 9, 10 – 16, 17, 18, đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc, thành phố RG. Thu giữ trên tay phải của Phương A đang cầm 01 bịch ma túy Khay (Ketamine) và 02 viên thuốc lắc (MDMA), (bút lục số 01 đến 02).

Qua điều tra xác định được vào khoảng 00 giờ 05 phút ngày 04/6/2023 A hát karaoke tại phòng 405, quán Karaoke Luxury, tại địa chỉ số 8, 9, 10-16, 17, 18, đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc cùng với khách là Bùi Thái Y, Nguyễn Thị Ngọc H1, người nam thanh niên tên Quí và hai nam thanh niên khác (tất cả đều không rõ tên thật, địa chỉ). Trong quá trình hát thì trong đó có người khách nam kêu Phương A mua giùm ma túy Khay và thuốc lắc về phòng để sử dụng thì Phương A đồng ý. Lúc này, Phương A nhớ lại trước đây có quen biết với người phụ nữ tên Út (chưa rõ tên thật, địa chỉ), nghĩ là Út biết chỗ bán ma túy nên Phương A tìm gặp một số người quen biết ngoài xã hội làm chung với Phương A xin được số điện thoại của Út. Sau đó, Phương A dùng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gold của Phương A gọi điện thoại cho Út hỏi mua 01 bịch ma túy Khay với số tiền 2.500.000 đồng và 02 viên thuốc lắc với số tiền 600.000 đồng. Khoảng 15 phút sau thì có một người nam thanh niên (chưa rõ tên, địa chỉ) gọi điện thoại kêu Phương A ra cửa sau cầu thang bộ của quán karaoke để nhận ma túy. Sau đó, Phương A đi ra nhận ma túy nhưng chưa trả tiền cho người nam thanh niên này vì Phương A nói là khi khách sử dụng xong trả phòng thì Phương A trả tiền mua ma túy. Sau các lần liên lạc thì Phương A đã xóa bỏ tất cả số điện thoại trên. Khi mua được ma túy, Phương A cầm trên tay phải đem về phòng 405, quán Karaoke Luxury, tại địa chỉ số 8, 9, 10-16, 17, 18, đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc định sử dụng với khách nhưng khi Phương A vừa vào phòng 405 thì bị Công an bắt quả tang cùng tang vật, Quí và hai người nam thanh niên không rõ họ tên chạy thoát. Mục đích Phương A tàng trữ trái phép chất ma túy là do mua giùm khách và để sử dụng cùng với khách. Ngày 13/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với A. Ngày 06/7/2023, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang ra Quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG để điều tra theo thẩm quyền, (bút lục số 05; 71; 80 đến 81; 84; 86; 90 đến 95; 102).

* Vật chứng vụ án: - 01 (một) bịch nylon màu trắng, có rãnh gài viên màu đỏ, kích thước khoảng 2,8cm x 4,5cm, bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng không đồng nhất và 02 (hai) viên nén màu nâu không rõ hình dạng. Tất cả được niêm phong trong phong bì màu trắng, có chữ ký của Điều tra viên DA Phát, người bị bắt A, người chứng kiến Bùi Thái Y, Nguyễn Thị Ngọc H1 và dấu mộc tròn màu đỏ của Công an phường Vĩnh Lạc, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gold, đã qua sử dụng, được niêm phong trong phong bì màu trắng, có chữ ký của Điều tra viên DA Phát, người bị bắt A, người chứng kiến Nguyễn Thị Mách và dấu mộc đỏ của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang, (bút lục số 02 đến 04).

* Tại Kết luận giám định 560/KL-KTHS, ngày 07/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận:

- Nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng, không đồng nhất chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,4550 gam.

-02 (hai) viên nén màu nâu không rõ hình dạng được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8291 gam.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 40, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của chính phủ.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục IB, STT 11, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của chính phủ, (bút lục số 18)..

* Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSRG ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội dA, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo A mức án từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo không có thu nhập ổn định.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định gồm: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài có ghi ký hiệu vụ số 560/2023, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến niêm phong Hồ Thị Tú A và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký và họ tên của người có đồ vật bị niêm phong A, người chứng kiến Võ Thị M, Trần Thị Mỹ H, Điều tra viên Võ Thị Thủy T và dâu mộc tròn màu đỏ xác nhận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG, bên trong phong bì có chứa 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gold, đã qua sử dụng. Đây là điện thoại bị cáo A sử dụng để liên lạc mua ma túy.

Theo quyết định chuyển vật chứng số 11 ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG (bút lục số 107).

- Đối với người phụ nữ tên Út (chưa rõ nhân thân lai lịch) đã bán ma tuý cho bị cáo Phương A, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố RG phải tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

* Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra - Công an thành phố RG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo A khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, cụ thể:

Vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 04/6/2023, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Kiên Giang bắt quả tang A đang tàng trữ trái phép chất ma túy (qua giám định là Ketamine, khối lượng 1,4550 gam và MDMA có khối lượng 0,8291 gam) tại phòng số 405, quán Karaoke Luxury, tại địa chỉ số 8, 9, 10 – 16, 17, 18, đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc, thành phố RG. Nguồn ma túy trên do Phương A mua của một người tên Út (không rõ tên, địa chỉ) tại khu vực cửa sau cầu thang bộ của quán karaoke Luxury. Mục đích Phương A tàng trữ chất ma túy là để sử dụng.

Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo A cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng đã truy tố của Viện Kiểm Sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi hình sự, ý thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền tác hại ma túy, ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội.

[4]- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa, bị cáo A đã thành khẩn khai báo thừa nhận hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự theo đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo đề nghị của Viện Kiểm sát.

[7] Về Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định gồm: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài có ghi ký hiệu vụ số 560/2023, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến niêm phong Hồ Thị Tú A và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký và họ tên của người có đồ vật bị niêm phong A, người chứng kiến Võ Thị M, Trần Thị Mỹ H, Điều tra viên Võ Thị Thủy T và dâu mộc tròn màu đỏ xác nhận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG, bên trong phong bì có chứa 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gold, đã qua sử dụng. Đây là điện thoại bị can A sử dụng để liên lạc mua ma túy. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 296, ngày 16/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG, (bút lục số 72).

Theo quyết định chuyển vật chứng số 11 ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG (bút lục số 107).

[8] Các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ tên Út (chưa rõ nhân thân lai lịch) đã bán ma tuý cho bị cáo Phương A và 02 người thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là các đối tượng mà bị cáo khai mua để cho những người này sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố RG phải tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm d mục 1.2 phần II DA mục án phí của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo A mức án 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ của bị cáo kể từ ngày 04/6/2023 đến ngày 13/6/2023).

2. Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài có ghi ký hiệu vụ số 560/2023, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam, người chứng kiến niêm phong Hồ Thị Tú A và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký và họ tên của người có đồ vật bị niêm phong A, người chứng kiến Võ Thị M, Trần Thị Mỹ H, Điều tra viên Võ Thị Thủy T và dâu mộc tròn màu đỏ xác nhận của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG, bên trong phong bì có chứa 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng gold, đã qua sử dụng. Đây là điện thoại bị can A sử dụng để liên lạc mua ma túy. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 296, ngày 16/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG, (bút lục số 72).

Theo quyết định chuyển vật chứng số 11 ngày 16/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG (bút lục số 107).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/03/2024).

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2024/HS-ST

Số hiệu:53/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về