TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA.
BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 28/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2023/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Lò Văn K, sinh ngày 10/12/1998; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản N, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn A, sinh 1974 và bà Quàng Thị Tt, sinh 1974; vợ Cà Thị Phương N, sinh 2001 và 01 con sinh 2021; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2022 đến nay; có mặt tại phiên toà.
2. H, sinh ngày 05/3/1996; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản N, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn L, sinh 1972 và bà Quàng Thị V, sinh 1975; bị cáo chưa có vợ, con;
tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2022 đến nay; có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Văn L, sinh 1972; nơi cư trú:
Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 00 phút ngày 15/11/2022, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE biển kiểm soát (BKS) 26B1-xxxxx chở Lò Văn K đi đến bản Văn M, xã M, huyện M thì gặp tổ công tác Công an huyện M phối hợp cùng Công an xã M làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra, Lò Văn K đã giao nộp: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng và 01 gói nilon màu hồng bên trong có 01 viên nén màu hồng K và H khai đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền.
Lò Văn K và H khai về nguồn gốc ma tuý: Hồi 16 giờ, ngày 15/11/2022 H điều khiển xe mô tô BKS 26B1-xxxxx chở Lò Văn K đi đến khu trung tâm xã M, tại đây K nói với H “Chú sắp đi làm rồi chú cháu mình góp mỗi người năm mươi nghìn đi mua một ít Heroine về cùng sử dụng đi”, H đồng ý và đưa cho K tờ tiền mệnh giá 50.000VNĐ rồi tiếp tục chở Khánh đi đến khu vực bản G, xã M, huyện M thì dừng lại, H vào quán tạp hóa, còn K đứng bên đường thì gặp một người đàn ông đi đường (không biết tên, tuổi, địa chỉ) hỏi và mua được 02 gói ma tuý với số tiền 100.000VNĐ, khoảng 5 đến 10 phút sau thì H từ quán tạp hóa đi ra, K đưa 02 gói ma túy mua được cho H xem rồi cùng nhau đi về thì bị bắt.
Ngày 15/11/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn K và H như sau: Cục bộ màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 0,10 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là KH1. 01 viên nén màu hồng trong gói nilon màu hồng có khối lượng là 0,09 gam, lấy toàn bộlàm mẫu gửi giám định ký hiệu là KH2. Còn lại: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.
Ngày 18/11/2022Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số 1740/KL-KTHS, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KH1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu KH2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; loại Heroine và 0,09 gam loại Methamphetamine”.
Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự thì hai chất ma túy Heroine và Methamphetamine thu giữ của Lò Văn K và H được quy định trong cùng một điểm nên khối lượng chất ma túy cộng lại là 0, 19 gam.
Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho K nhưng không thu thập được tài liệu nào khác ngoài lời khai của K.
Thực hiện xác minh nguồn gốc phương tiện đối với xe mô tô BKS 26B1- xxxxx là tài sản của anh Lò Văn L, việc H sử dụng khi phạm tội anh L không biết, đề nghị xin nhận lại chiếc xe. Ngày 28/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã quyết định trả lại xe mô tô cho anh Lò Văn L, anh L không yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số 19/CT-VKS-ML ngày 22/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo Lò Văn K và H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố các bị cáo Lò Văn K và H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 17, 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 22 đến 26 tháng tù; xử phạt bị cáo H từ 20 đến 24 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì và 02 mảnh nilon; chấp nhận Cơ quan điều tra Công an huyện đã trả lại xe máy cho anh Lói. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo K, H phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo H tự bào chữa, tranh luận: nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M; xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Lò Văn K tự bào chữa, tranh luận: Do bản thân nghiện ma túy nên mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân; xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hồi 17 giờ, ngày 15/11/2022, bị cáo Lò Văn K và H cùng thống nhất góp mỗi người 50.000VNĐ đi mua ma tuý để sử dụng, K trực tiếp mua và cất giữ ma tuý rồi cùng nhau đi về, khi đi đến bản V, xã M, huyện M thì gặp Tổ công tác Công an huyện M phối hợp cùng Công an xã M làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện các bị cáo cất giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 01 viên nén màu hồng, K và H khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, hồi 17 giờ 10 phút ngày 15/11/2022, thu giữ, niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số1740/KL- KTHS, ngày 18/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu KH1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu KH2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; loại Heroine và 0,09 gam loại Methamphetamine”. Cộng khối lượng hai chất ma túy là 0,19 gam. Như vậy, Lò Văn K và H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lò Văn K và H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự; các bị cáo cất giữ 02 chất ma túy (Heroine và Methamphetamine) có tổng khối lượng là 0,19 gam, tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự “c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” là đã phạm tình tiết định khung theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ b đến điểm h khoản này”.
[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Các bị cáo được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vì sử dụng ma túy các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, giữa các bị cáo không có sự phân công, không có sự cấu kết chặt chẽ nên chưa được coi là có tổ chức, theo quy định tại các Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự thì các bị cáo là đồng phạm giản đơn, có cùng tính chất, trong đó Khánh giữ vai trò chính (là người rủ, trực tiếp mua và cất giữ trái phép chất ma túy), còn H cùng thực hành tích cực (góp tiền, dùng xe máy chở K đến khu vực mua ma túy). Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý có tổng khối lượng 0,19 gam là nguy hiểm cho xã hội; với lỗi cố ý trực tiếp các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; tội phạm các bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do sử dụng ma túy và kinh tế của gia đình các bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết các bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: các bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: các bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (luôn thể hiện sự cắn rứt lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, nhận thức pháp luật hạn chế, khối lượng ma tuý không lớn, mục đích tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng, cần xem xét giúp đỡ các bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Nhân thân: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.
[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa xác định: không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với các bị cáo.
[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam để bảo đảm việc thi hành án; các bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 15/11/2022 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
[9] Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của bị cáo nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.
[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,10 gam Heroine và 0,09 gam Methamphetamine không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.
Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 02 mảnh nilon là vật chứng không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA AIRBLADE BKS 26B1-xxxxx là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Lò Văn L; anh L không biết việc bị cáo sử dụng đi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã thu giữ và trả lại chủ sở hữu là đúng thẩm quyền, có căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định các bị cáo là người dân tộc thiểu số nhưng không sống ở vùng đặc biệt khó khăn, không có căn cứ miễn, giảm nộp tiền án phí. Do đó, buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với cả hai bị cáo Lò Văn K và H.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn K và H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt:
Bị cáo Lò Văn K 22 (Hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (15/11/2022).
Bị cáo H 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (15/11/2022). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì, 02 mảnh nilon của Lò Văn K (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: buộc bị cáo Lò Văn K và H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) đối với một bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/3/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2023/HS-ST
Số hiệu: | 53/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về