Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 09/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 09 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2022/TLST-HS, ngày 19 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2022/QĐXXST- HS, ngày 07 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Thanh T, sinh ngày 11 tháng 5 năm 1996, tại xã L1, huyện L2, tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: ấp AA, xã L1, huyện L2, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Đặng Thị Ánh H; vợ là Lý Hồng Y; con 01 người sinh năm 2022; anh, chị em ruột 02 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2003.

Tiền án: không; tiền sự: Ngày 16/8/2021 Ủy ban nhân dân xã L1, huyện L2, tỉnh Vĩnh Long ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế (ra đường thuộc diện không cần thiết); xâm hại sức khỏe người khác và sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 5.250.000 đồng (đã nộp tiền phạt ngày 24/9/2021), nhân thân bị cáo không có án tích, không bị xử lý vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật đã được xóa. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/8/2022 và hiện có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lý Hồng Y, sinh năm 1997 (có mặt).

Nơi cư trú: ấp AA, xã L1, huyện L2, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18/8/2022, bị cáo Lê Thanh T đang ngồi chơi ở nhà của bạn là Phạm Trường H, thuộc ấp AA, xã L1, huyện L2, tỉnh Vĩnh Long thì có người bạn tên K (không rõ họ tên và địa chỉ dùng mạng xã hội Messenger và có Nickname là “K Nguyễn” gọi đến Messenger và có Nickname “T Bờ Gòn” của bị cáo T, và kêu T đến nhà trọ “VT” thuộc ấp TB, xã TL, huyện M, tỉnh Vĩnh Long để cho T 01 “cái đồ” là bịch ma túy đá giá 500.000 đồng, bị cáo T đồng ý. Sau đó T nhờ bạn là N (không rõ họ tên và địa chỉ) chở đến nhà trọ “VT” có công việc. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì N chở bị cáo T đến nhà trọ “VT” rồi N chạy xe về, còn T ở lại và đi đến Phòng số 6 kêu “K ơi” thì K mở cửa và đưa cho T 01 khẩu trang y tế màu trắng, bên trong có ống nhựa màu trắng, bên trong có đoạn ống nhựa chứa tinh thể màu trắng. T dùng tay phải nhận lấy và cầm trong lòng bàn tay và đi về. Khi đi đến trước cửa Phòng trọ số 01 của nhà trọ “VT” thì bị lực lượng Công an kiểm tra thu giữ 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy đá.

Tại Kết luận giám định số: 588/KL-KTHS ngày 21/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong ống nhựa được niêm phong trong bao thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,2082 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời ra lệnh tạm giam từ ngày 25/8/2022 đến nay.

Về vật chứng thu giữ: Chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định có tổng khối lượng 0,1334 gam tiếp tục tạm giữ để xử lý.

Đối với điện thoại di động của chị Lý Hồng Y cho bị cáo T mượn để liên lạc với đối tượng K để lấy ma túy sử dụng, chị Y không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít không xử lý và đã trả lại cho chị Y xong.

Đối với người có tên K dùng mạng xã hội Messenger với Nickname là “K Nguyễn” và người có tên N không rõ họ tên và địa chỉ. Hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được tiến hành xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS.HMT, ngày 14/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít đã truy tố bị cáo Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Thanh T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo thừa nhận nội dung Cáo trạng truy tố hành vi của mình là hoàn toàn đúng sự thật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, 5 Điều 249, các Điều 38, 46, 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định loại Methamphetamine có khối lượng 0,1334 gam, điện thoại di động đã trả xong cho chị Lý Hồng Y, nên miễn xét. Về án phí buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng bị cáo Lê Thanh T tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mang Thít, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh T thừa nhận: Vào khoảng 19 giờ ngày 18/8/2022, sau khi nhận ma túy từ người có tên K tại Phòng trọ số 06 để trong lòng bàn tay thì bị cáo đi đến trước cửa Phòng trọ số 01 của nhà trọ “VT” thuộc ấp TB, xã TL, huyện M, tỉnh Vĩnh Long bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị lực lượng Công an kiểm tra theo kết luận giám định chất ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng là 0,2082 gam.

Xét thấy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện T, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, sơ đồ hiện T, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít đã truy tố bị cáo Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

Xét, lời khai nhận tội của bị cáo Lê Thanh T tại phiên tòa là phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời buộc tội của vị đại diện Viện kiểm sát tại toà, phù hợp với bản kết luận điều tra mà còn phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với điện thoại di động của chị Lý Hồng Y cho bị cáo T mượn để liên lạc với đối tượng K để lấy ma túy sử dụng, chị Y không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít không xử lý và đã trả lại cho chị Y xong.

Đối với người có tên K dùng mạng xã hội Messenger và có Nickname là “K Nguyễn” gọi cho bị cáo nhận ma túy và người có tên N là người chở bị cáo T đến nhà trọ “VT” hiện không rõ họ tên và địa chỉ. Hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được tiến hành xử lý sau.

[2.2] Xét tính chất, mức độ hành vi do bị cáo Lê Thanh T gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy mà còn là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội khác. Như chúng ta đều biết, ma túy là chất hướng thần, người sử dụng sẽ bị kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, người sử dụng nhiều sẽ gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, dễ kích động thần kinh theo hướng tiêu cực, làm suy giảm khả năng lao động, dễ dẫn đến những tệ nạn xã hội khác như: trộm cắp, cướp giật hoặc là một trong những nguyên nhân dân đến căn bệnh HIV. Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mọi hành vi vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu bản thân bị cáo lại tàng trữ ma túy một cách trái phép để sử dụng, cho thấy ý thức coi thường pháp luật, nhất là hiện nay tình hình tội phạm ma túy ngày càng gia tăng và cần được ngăn chặn kịp thời. Vì thế, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có nhân thân không tốt có 01 tiền sự về hành vi không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế (ra đường thuộc diện không cần thiết); xâm hại sức khỏe người khác và sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2.4] Về hình phạt bổ sung: Theo tài liệu, chứng cứ và lời khai bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy có khối lượng 0,1334 gam, loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và trực tiếp liên quan đến vụ án, nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với điện thoại di động của chị Lý Hồng Y cho bị cáo T mượn để liên lạc với đối tượng K để lấy ma túy sử dụng, chị Y không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít không xử lý và đã trả lại cho chị Y xong, nên miễn xét.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Phạt bị cáo Lê Thanh T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18 tháng 8 năm 2022.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Lê Thanh T.

2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy, loại Methamphetamine sau khi giám định còn lại có khối lượng là 0,1334 gam.

Vật chứng được niêm phong theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18 tháng 10 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít với Chi cục thi hành án dân sự huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án;

Buộc bị cáo Lê Thanh T nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về