TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/HSST ngày 10 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
TRẦN QUỐC P, sinh năm: 1995, tại tỉnh Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn A và bà Trần Thị Thu H. Có 03 con.
Tiền sự: Ngày 22/01/2021 bị Công an phường P, thành phố P xử phạt 750.000 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 0074252 ngày 22/01/2021; Tiền án: không Nhân thân:
- Ngày 19/10/2010 bị Công an phường Đ, thành phố P xử phạt bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 181/QĐ-XPHC ngày 19/10/2010 - Ngày 15/3/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 10/2012/HSST. Bị cáo đã chấp hành án xong ngày 27/3/2013 đã được xóa án tích.
- Ngày 25/12/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 226/2013/HSST. Bị cáo đã chấp hành án xong ngày 08/11/2016 đã được xóa án tích.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 31/01/2021, bị cáo Trần Quốc P (sinh năm 1995; trú tại khu phố 7, phường Đ, thành phố P) đến nhà Huỳnh Thanh Ph (sinh năm 1980, trú tại khu phố 8, phường Đ, thành phố P) chơi và ở lại đó đến khoảng 13 giờ thì bị cáo về nhà của Nh (bạn của Ph, không rõ nhân thân, ở huyện H) để chơi. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, do cãi nhau với vợ nên bị cáo P gọi điện thoại hỏi Ph xuống nhà Ph chơi và ngủ lại được không, Ph đang đi công việc nhưng đồng ý cho bị cáo xuống. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo P đến nhà Ph thì có cháu của Ph là Nguyễn Đình Minh Đ (tên gọi khác: bé Hai, sinh năm 2002, trú tại khu phố 8, phường Đ, thành phố P) ra mở cửa, còn Ph đang ngủ. Ngồi chơi một lát, bị cáo P thấy buồn chuyện gia đình nên lấy trong túi ra 01 gói ma túy mua sẵn trước đó của một người tên T (không rõ nhân thân) với giá 150.000 đồng. Bị cáo P rủ Đ cùng sử dụng ma túy thì Đ đồng ý và lấy ra từ phía sau ghế 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế. Bị cáo đưa gói ma túy cho Đ cắt và đổ vào trong bình hút để sử dụng. Phần còn lại bị cáo P dùng bật lửa hơ qua rồi bóp cho dính lại, bị cáo nhìn thấy có băng keo dính hai mặt ở dưới bàn nên bị cáo lấy miếng băng keo đó dán gói ma túy lại và dán vào bàn gỗ trong phòng khách nhà Phong. Sau đó, bị cáo P cùng sử dụng ma túy với Đ và chơi game điện thoại. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 01/02/2021, Công an phường Đ tiến hành kiểm tra lưu trú đối với hộ Huỳnh Thanh Ph. Tại thời điểm kiểm tra trong nhà có Ph, Đ và bị cáo P, khi kiểm tra bị cáo P xuất trình giấy chứng minh nhân dân của mình nên Công an phường Đ đã cho bị cáo về. Sau khi bị cáo P về Công an phường nhận thấy có dấu hiệu nghi vấn của việc sử dụng trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với nhà của Ph. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng nằm dưới sàn nhà và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế ở dưới chân ghế mà Đ đang ngồi trong nhà của Ph nên Công an phường Đ đã đưa Ph, Đ cùng tang vật về trụ sở Công an phường để làm việc. Qua làm việc các đối tượng Ph và Đ khai nhận gói nylon chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá của bị cáo P đem đến để sử dụng. Sau đó Công an phường đã đưa bị cáo P về trụ sở để làm việc thì bị cáo P đã thừa nhận gói ma túy đá đã thu giữ tại nhà Ph là của bị cáo đem đến nhà Pho và có rủ Đ cùng sử dụng, không yêu cầu Đ góp tiền mua ma túy.
Vật chứng của vụ án:
- 01 gói nylon kích thước (02x03)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng được hàn kín 04 đầu.
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 chai nhựa và 01 ống hút nhựa (riêng nỏ thủy tinh sau khi sử dụng Đ gỡ ra thì bị bể nên đem đi vứt, Cơ quan điều tra không thu giữ được) Tại phiên tòa bị cáo Trần Quốc P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại kết luận giám định số 253/KLGĐ-PC09 ngày 04/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,4103 gam, là Methamphetamine.
Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Quốc P đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Quốc P với mức hình phạt từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 253, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận còn lại sau giám định, là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.
Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 chai nhựa và 01 ống hút nhựa.
Đối với Nguyễn Đình Minh Đ: quá trình điều tra xác định có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố P đã chuyển hồ sơ cho Công an phường Đ xem xét xử lý hành chính đối với Đức theo quy định.
Đối với Huỳnh Thanh Ph quá trình điều tra xác định Ph không biết việc P đem ma túy đến nhà Ph cùng sử dụng với Đ, không tham gia góp tiền nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.
Đối với đối tượng tên T đã mua ma túy cho P: do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.
Lời nói sau cùng của bị cáo Trần Quốc P: Bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố P và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:
Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 01/02/2021, Công an phường Đ kiểm tra hành chính đối với nhà Huỳnh Thanh Ph. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ 01 gói nylon bên trong có chứa 0,4103 gam Methamphetamine nằm dưới sàn nhà và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế ở dưới chân ghế mà Nguyễn Đình Minh Đ đang ngồi trong nhà của Huỳnh Thanh Ph. Qua làm việc Ph và Đ khai nhận gói nylon chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá của bị cáo Trần Quốc P đem đến để sử dụng. Sau đó Công an phường đã đưa bị cáo P về trụ sở để làm việc thì P đã thừa nhận ma túy đá đã thu giữ tại nhà Ph là của bị cáo.
Xét thấy Trần Quốc P là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức đầy đủ về hành vi của mình đối với xã hội. Bị cáo nhận thức được những tác hại nguy hiểm của ma túy đối với sức khỏe con người, đối với cộng đồng xã hội và việc tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc đối với mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo đã xem thường pháp luật, đã tàng trữ ma túy bất chấp hậu quả. Do đó đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Quốc P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Mặt khác bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm rèn luyện tu dưỡng sớm trở thành người có ích cho xã hội.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 gói nylon và 0,1852 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 253, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành; Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 chai nhựa và 01 ống hút nhựa, là những vật không có giá trị. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với nguồn gốc ma túy tàng trữ, bị cáo khai nhờ đối tượng tên T mua.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với Nguyễn Đình Minh Đ: quá trình điều tra xác định có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố P đã chuyển hồ sơ cho Công an phường Đ xem xét xử lý hành chính đối với Đức theo quy định.
Đối với Huỳnh Thanh Ph quá trình điều tra xác định Ph không biết việc P đem ma túy đến nhà Ph cùng sử dụng với Đ, không tham gia góp tiền nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.
[6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc P phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc P 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon và 0,1087 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 253, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 chai nhựa và 01 ống hút nhựa.
Vật chứng ghi trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố P quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 57 ngày 28/02/2022.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Trần Quốc P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày18/4/2022).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST
Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về