TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN B
BẢN ÁN 52/2024/HS-ST NGÀY 17/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2024/TLST-HS ngày 08/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2024/QĐXXST-HS ngày 03/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Thị D; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; sinh năm 1990 tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B; nơi cư trú: Bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: 2/12; con ông: Lò Văn V, sinh năm 1958; con bà: Lò Thị H, sinh năm 1959; chồng, con: Quàng Văn Th, sinh năm 1990 và có 05 con, con lớn nhất, sinh năm 2010, con nhỏ nhất, sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị tạm giữ từ ngày 12/10/2023 đến ngày 21/10/2023 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ, ngày 12/10/2023, Lò Thị D mình đi bộ từ nhà tại bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B ra bản Nà T, xã Nà T, huyện Tuần G để tìm mua ma túy về để sử dụng. Khi Duyên đi đến khu vực bản Pá T, xã Nà T, huyện Tuần G thì gặp một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ. Qua trao đổi D mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 500.000 đồng.
Sau khi mua được Heroine, D cất giấu vào trong lòng bàn tay trái rồi đi về nhà. Đến 10 giờ 45 phút cùng ngày khi D đi đến khu vực bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G thì bị tổ công tác Công an xã Nà T, huyện Tuần G phối hợp với tổ công tác Công an huyện Tuần G, tỉnh Điên B kiểm tra phát hiện thu giữ tại lòng bàn tay trái Lò Thị D 01 gói Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng D cất giấu nhằm mục đích sử dụng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 15 giờ 10 phút ngày 12/10/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G đã xác định: Mẫu chất cục màu trắng nghi ma túy loại Heroine có khối lượng 0,54 gam, gửi giám định toàn bộ.
Tại Bản kết luận giám định số: 1508/KL-KTHS ngày 19/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện B đã kết luận: Mẫu các cục màu trắng gửi giám định thu giữ của Lò Thị D là chất ma túy, loại Heroine, hoàn lại đối tượng giám định 0,41 gam.
Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi mua Heroine về để sử dụng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.
Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSTG ngày 07/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Thị D từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng; 01 phong bì được niêm phong bên trong có chứa mẫu vật được hoàn lại là 0,41 gam Heroine.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo hoàn toàn nhất trí với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có quan điểm tranh luận.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 10 giờ 45 phút, ngày 12/10/2023 tại khu vực bản Nong T, xã Nà T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,54 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt ng ười phạm tội quả tang (BL 01-02); biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng (BL70); kết luận giám định (BL 73); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã cất giấu trái phép 0,54 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Thị D sinh ra và lớn lên tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B, sử dụng ma túy từ năm 2021. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
HĐXX xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, xét đề nghị của đại diện VKS là có căn cứ nên cần được chấp nhận.
Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết tại bản Pá T, xã Nà T, huyện Tuần G, cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ được, HĐXX không xem xét.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo chỉ làm nông nghiệp, là hộ nghèo, là người sử dụng ma túy nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo, là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành, cần bị tịch thu tiêu hủy.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng; 01 phong bì được niêm phong bên trong có chứa mẫu vật được hoàn lại là 0,41 gam Heroine.
[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo thuộc diện được miễn án phí, có đơn xin miễn án phí, HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[7]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
1. Về tội danh: Bị cáo Lò Thị D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Thị D: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/10/2023 đến ngày 21/10/2023 là 09 ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng; 01 phong bì được niêm phong bên trong có chứa mẫu vật được hoàn lại là 0,41 gam Heroine.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng đã được Công an huyện Tuần G bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần G hồi 10 giờ 00 phút, ngày 12 tháng 12 năm 2023)
4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 17/01/2024./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2024/HS-ST
Số hiệu: | 52/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về