Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TU, TỈNH LC

BẢN ÁN 52/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TU, tỉnh LC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2024/TLST- HS ngày 07 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2024/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Thị S; Sinh ngày 01/01/19xx tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản H, xã T, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: M; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Sông T (đã chết, không xác định được năm sinh) và bà Giàng Thị L, sinh năm 1943; Bị cáo có chồng là Sùng A P, sinh năm 1969 và có 03 con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 16 giờ 00 phút ngày 17/11/2023, tạm giam từ ngày 23/11/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TU, tỉnh LC. (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Lý Thị S: Ông Lê Mạnh H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh LC. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 16/11/2023, Lý Thị S một mình đi lấy củi tại bản Huổi Cày, xã Ta Gia, huyện TU, tỉnh LC thì gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch). Qua nói chuyện, Lý Thị S đã mua của người đàn ông đó 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng, mục đích: để sử dụng. Mua được Heroine, Lý Thị S mang về nhà mình thuộc bản Huổi Cày, xã Ta Gia, huyện TU, chia thành nhiều gói nhỏ, đều gói bằng mảnh nilon màu trắng. Sau đó, Lý Thị S cho các gói Heroine vào 01 lọ nhựa và 01 túi nilon rồi cất giấu vào cuộn vải thổ cẩm, không cho ai biết. Đến sáng ngày 17/11/2023, Lý Thị S cùng với chồng là Sùng A P (sinh năm 19xx trú tại bản H, xã T, huyện TU) đi tìm việc làm thuê tại bản Noong Ma, xã Tà Hừa, huyện TU, tỉnh LC. Khi đi, Lý Thị S mang theo cuộn vải thổ cẩm, bên trong có cất giấu Heroine đã mua được từ hôm trước. Lý Thị S không nói với ai về việc mang theo Heroine để sử dụng. Đến hồi 08 giờ 40 phút cùng ngày, khi Lý Thị S đang đi bộ tại bản Noong Ma, xã Tà Hừa, huyện TU thì bị Công an xã Tà Hừa, huyện TU phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ tại cuộn vải thổ cẩm màu đen Lý Thị S đang cầm trên tay có 01 lọ nhựa màu trong suốt, nắp màu hồng và 01 túi nilon, bên trong đựng tổng số 15 gói Heroine.

Tại bản Kết luận giám định số 126 ngày 17/11/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện TU và bản Kết luận giám định số 1117 ngày 20/11/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LC kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lý Thị S có tổng khối lượng là 0,47 gam; là ma túy, loại: Heroine (Heroin).

Vật chứng của vụ án gồm: 0,47 gam Heroine thu giữ của Lý Thị S (đã trích 0,11 gam gửi giám định (không hoàn lại mẫu vật)) còn lại 0,36 gam Heroine; 01 lọ nhựa trong suốt, nắp màu hồng; 01 túi nilon trong suốt, 16 mảnh nilon màu trắng, 01 cuộn vải thổ cẩm màu đen và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu. Số vật chứng còn lại hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC.

Bản cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 07/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU tỉnh LC truy tố bị cáo Lý Thị S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, tỉnh LC giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lý Thị S từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2023.

Miễn áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,36 gam Heroine; 01 lọ nhựa trong suốt, nắp màu hồng; 01 túi nilon trong suốt, 16 mảnh nilon màu trắng, 01 cuộn vải thổ cẩm màu đen và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính, hình phạt bổ sung và đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Bị cáo Lý Thị S đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình và là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nguyên nhân, điều kiện phạm tội xuất phát từ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, hành vi phạm tội đơn giản do bị cáo mua ma tuý về sử dụng cho nhu cầu của bản thân, khối lượng ma tuý tàng trữ thấp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lý Thị S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo nhất trí và không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát và nhất trí với luận cứ bào chữa, không bổ sung lời bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Thị S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 14 giờ ngày 16/11/2023, tại bản Huổi Cày, xã Ta Gia, huyện TU, tỉnh LC, Lý Thị S đã mua trái phép 01 gói Heroine từ một người không rõ lai lịch với giá 200.000 đồng. Sau đó, Lý Thị S chia Heroine thành nhiều gói nhỏ, mục đích: để sử dụng. Đến 08 giờ 40 phút ngày 17/11/2023, tại bản Noong Ma, xã Tà Hừa, huyện TU, Lý Thị S bị Công an huyện TU phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, vật chứng thu giữ của Lý Thị S là 15 gói Heroine có tổng khối lượng 0,47 gam.

Bị cáo Lý Thị S là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi cố ý tàng trữ trái phép 0,47 gam Heroine, mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương do vậy cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Lý Thị S sinh ra tại huyện TU, tỉnh LC, bị cáo không được đi học, không biết chữ, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là phụ nữ nhưng đã không làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ trong gia đình, làm gương cho các con mà mắc vào tệ nạn xã hội, nghiện chất ma túy dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lý Thị S đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, gia đình thuộc diện hộ nghèo, bản thân bị cáo nghề nghiệp trồng trọt, thu nhập không ổn định, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo không đảm nhiệm chức vụ và không có tài sản gì đáng kể do đó Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,47 gam Heroine thu giữ của Lý Thị S (đã trích 0,11 gam gửi giám định (không hoàn lại mẫu vật) nên không phải xử lý) còn lại 0,36 gam Heroine là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu để tiêu huỷ; đối với 01 lọ nhựa trong suốt, nắp màu hồng, 01 túi nilon trong suốt, 16 mảnh nilon màu trắng, 01 cuộn vải thổ cẩm màu đen và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lý Thị S là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc diện hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí. Do đó, căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử miễn cho bị cáo Lý Thị S 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Như vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU về mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

Chấp nhận ý kiến của người bào chữa về tội danh, điều khoản áp dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm đối bị cáo. Không chấp nhận đề của của người bào chữa cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt. Do bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Do vậy, cần có mức án tương xứng trong khung đề nghị của Viện kiểm sát mới đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[9] Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[10] Các vấn liên quan đến vụ án:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Lý Thị S khai mua của một người không biết tên, tuổi, nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Sùng A P (là chồng của Lý Thị S). Quá trình điều tra xác định khi Lý Thị S mua và cất giấu Heroine, Sua không nói cho Sùng A P biết. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Sùng A P là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Thị S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lý Thị S 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 17/11/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 Bì niêm phong bên trong đựng 0,36 gam Heroine; 01 Phong bì Công an huyện TU bên trong đựng 01 lọ nhựa trong suốt, 01 túi nilon trong suốt, 16 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; 01 cuộn vải thổ cẩm màu đen.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 21 tháng 02 năm 2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn cho bị cáo Lý Thị S 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2024/HS-ST

Số hiệu:52/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về