Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 52/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2024/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo :

Phan Đức C; sinh năm 1996, tại: T.T.H; Hộ khẩu thường trú: T.H.B, Phường T.A, Thành phố H, tỉnh T.T.H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; con ông Phan C, sinh năm 1969 và bà Trần Thị L, sinh năm 1973; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt ngày 30/7/2023 (Có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Minh G, Trú tại: 1250/17 Q.L 1A, phường T.A, Quận 12,Thành phố H.C.M (Vắng mặt).

Người làm chứng:

1/Ông Lê Ngọc H, sinh năm 2002; Trú tại: Số 625 đường T.C, phường T.S.N, quận T.P, thành phố H.C.M(Vắng mặt).

2/Ông Nguyễn Trí H, sinh năm 1974; Trú tại: Số 794 đường T.K.T.Q, phường B.H.H, quận B.T, Thành phố H.C.M (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 55 phút ngày 29/07/2023, tổ tuần tra Hình sự đặc nhiệm Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Công an Quận Bình Tân tuần tra đến trước nhà số 716 Tân Kỳ Tân Quý, phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện Phan Đức C đang điều khiển xe mô tô biển số 55Y1 – 18xx chở phía sau Ngô Đức H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của Phan Đức C đang mặc có 01 gói nylon bên trong có chứa 01 viên nén màu xám và 02 mảnh vụn viên nén màu xám, 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa chất bột màu hồng. C khai nhận là ma tuý mua về để sử dụng cho bản thân nên đưa C về trụ sở Công an phường Bình Hưng Hòa lập biên bản phạm tội quả tang. Vụ việc sau đó được chuyển lên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân để xử lý theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra Công an quận Bình Tân, bị cáo Phan Đức C khai nhận số ma tuý trên C mua của một người đàn ông tên Trí (không rõ nhân thân, lai lịch) vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 29/7/2023 tại trước quán Bar NEW đường Gò Dầu, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. C và Ngô Đức H là bạn bè, H không góp tiền mua ma tuý, không biết C sử dụng ma tuý và không biết C cất giữ ma tuý ở trong người. Lời khai của C phù hợp với vật chứng đã thu giữ, lời khai của Ngô Đức H, người chứng kiến, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ, tạm giữ:

- 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xám với 02 mảnh vụn viên nén màu xám;

01 gói nylon chứa chất bột màu trắng; 01 gói nylon chứa chất bột màu hồng.

Tại bản kết luận giám định số 8377/KL-KTHS ngày 07/08/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xám với 02 mảnh vụn viên nén màu xám. Qua giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,7439 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng. Qua giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,9397 gam loại Ketamine; 01 gói nylon chứa chất bột màu hồng. Qua giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,1010 gam loại MDMA.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 màu tím có số thuê bao: 0399399xx8.

Bị cáo C sử dụng vào việc mua ma túy.

- 01 xe mô tô biển số 55Y1 – 18xx. Bị cáo C khai mua xe mô tô trên của một người bạn ngoài xã hội với giá 5.000.000 đồng, khi mua xe thì không làm hợp đồng mua bán, mục đích bị cáo C mua xe mô tô trên để làm phương tiện di chuyển. Qua xác minh xe mô tô trên do chị Nguyễn Thị Minh G, địa chỉ: 1250/17 Q.L 1A, phường T.A, Quận 12,Thành phố H.C.M đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh chị Nguyễn Thị Minh G không còn cư trú tại chỉ trên bán nhà đi đâu không rõ.

Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ làm việc.

Tại bản cáo trạng số: 37/QĐ-VKS ngày 16/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân truy tố bị cáo Phan Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân sau khi phân tích nội dung vụ án, phân tích chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 , điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phan Đức C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định. Bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Đức C và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 màu tím có số thuê bao: 0399399xx8 bị cáo C sử dụng vào việc mua ma túy và 01 chiếc xe mô tô biển số 55Y1 – 18xx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Trong quá trình điều tra truy tố bị cáo Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận, nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nhau, với lời khai của, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật hình sự qui định. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được qui định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

[3]Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là cố ý và nguy hiểm cho xã hội.

Bỡi lẽ ma túy là chất độc hại gây nghiện ảnh hưởng đến sức khỏe con người và ảnh hưởng đến sự phát triển của cộng đồng xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo do chay lười lao động, thích hưởng thụ nên sớm đi vào con đường nghiện ngập. Mặt khác ma túy còn làm người sử dụng tự hủy hoại bản thân mà còn ảnh hưởng đến kinh tế gia đình làm cho xã hội phải gánh chịu những hậu quả to lớn do ma túy để lại, góp phần làm gia tăng các loại tội phạm khác, làm lây lan những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với người nghiện ma túy. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy, là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên Tàng trữ trái phép chất ma túy, bất chấp những qui định của pháp luật, điều đó thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo, cần có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gia dài nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập cải tạo, từ bỏ con đường nghiện ngập mà phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo, tàng trữ ma túy qua giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,7439 gam loại MDMA;

0,9397 gam loại Ketamine; 0,1010 gam loại MDMA. Tổng khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ là 1,7846 gam ma túy ở thể rắn. Do dó, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 để truy tố bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4]Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét bị cáo có nhân thân tốt bản thân chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và qua diễn biến tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội, tỏ ra ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử cũng cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

[5]Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

[6]Về vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Đức C và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân, chữ ký của Điều tra viên, chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra qua giám định là ma túy ở thể rắn có khối 0,7439 gam loại MDMA; 0,9397 gam loại Ketamine; 0,1010 gam loại MDMA. Là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 màu tím có số thuê bao: 0399399xx8. Bị cáo sử dụng vào việc mua ma túy nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 xe mô tô biển số 55Y1 – 18xx. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai mua xe mô tô trên của một người bạn ngoài xã hội với giá 5.000.000 đồng, khi mua xe thì không làm hợp đồng mua bán, mục đích bị cáo C mua xe mô tô trên để làm phương tiện di chuyển. Qua xác minh xe mô tô trên do chị Nguyễn Thị Minh G, địa chỉ: 1250/17 Q.L 1A, phường T.A, Quận 12,Thành phố H.C.M đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh chị Nguyễn Thị Minh G không còn cư trú tại chỉ trên bán nhà đi đâu không rõ. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ làm việc Hội đồng xét xử quyết định giao Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân tiếp tục đăng thông tin tìm chủ sở hữu chiếc xe nói trên trong hạn 03 tháng tính từ ngày tuyên án nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với Ngô Đức H không góp tiền mua ma tuý, không biết và không liên quan đến hành vi tàng trữ ma tuý của bị cáo C nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

Đối với người đàn ông tên Trí (không rõ lai lịch) bán cho C số ma túy trên, do chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[8]Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phan Đức C 01(một) năm 06(sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2023.

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

2.Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định bên ngoài có chữ ký ghi tên Phan Đức C, Lê Ngọc H (Người chứng kiến), Nguyễn Thục (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 màu tím có số thuê bao: 0399399xx8.

Giao Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân tiếp tục đăng thông tin tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 55Y1 – 18xx trong thời hạn 03 tháng tính từ ngày tuyên án nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số NK24/75TAM ngày 04/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân) Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

3.Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2024/HS-ST

Số hiệu:52/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về