TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2020/HSST ngày 27 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn H, sinh năm 1980; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản M, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn Y (đã chết) và bà Tòng Thị N1 (đã chết); Có vợ là Lường Thị T, có 02 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2011); Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: năm 2012 cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động tỉnh Sơn La.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 17/4/2020 đến ngày 09/6/2020 được tại ngoại đến nay có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lường Thị T, sinh năm 1980. Trú tại: Bản Mung, xã N, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 30 phút, ngày 17/4/2020 tổ công tác Công an xã X, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản Q, xã X phát hiện bắt quả tang Lò Văn H đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 gói ni lon màu xanh bên trong có chứa chất bột mà trắng, H khai nhận là Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ 01 xe mô tô BKS 88S6- 27xx.
Ngày 18/4/2020 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng, trích mẫu giám định, kết quả: số chất bột màu trắng thu giữ của H có khối lượng 0,15 gam, đã sử dụng toàn bộ để làm mẫu gửi giám định, ký hiệu H.
Tại bản kết luận giám định số 633 ngày 21/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,15 gam; Loại Heroine”.
Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 14 giờ 00’ ngày 17/4/2020, bị cáo một mình điều khiển xe mô tô BKS 88S6- 27xx mang theo 50.000đ và 01 bơm kim tiêm bằng nhựa từ nhà đi vào bản E, xã X, huyện S để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến bản E thì H gặp một người đàn ông dân tộc Mông đứng ở ven đường, H dừng xe hỏi mua Heroine và đưa cho người đàn ông này 50.000đ, người đàn ông nhất trí và đi ra phía sau một ngôi nhà khoảng 5 phút và quay lại đưa cho H 1 gói ni lon màu xanh bên trong có chứa Heroine. H nhận lấy và xin người đàn ông này thêm được một ít Heroine, H gói chung vào gói Heroine đã mua rồi điều khiển xe quay về. Khi về đến khu vực rừng của bản Q, H dừng xe và đem ma túy ra sử dụng bằng hình thức chích vào cơ thể, sử dụng xong H ném xi lanh và cầm ma túy trong lòng bàn tay trái ra về, khi về đến khu vực bản Q, xã X thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên.
Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 52/CT-VKSSM ngày 25 tháng 5 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lò Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn H từ 12 - 15 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Trả lại xe mô tô cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lường Thị Thương. Miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.
Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 18 giờ 35 phút, ngày 17/4/2020, bắt quả tang Lò Văn H có hành vi cất giấu 01 gói chất bột màu trắng ghi là Heroine.
- Vật chứng bị thu giữ là một gói nilon có chứa chất bột màu trắng; Kết luận giám định số 633 ngày 21/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận gói chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo là ma túy “..Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,15 gam”.
- Lời khai bị cáo về việc ngày 17/4/2020 có lên bản E, xã X, huyện S mua ma túy, sau khi mua được đã trích ra một ít để sử dụng, số còn lại được giữ tại lòng bàn tay trái để đem về sử dụng dần, khi đang trên đường trở về thì bị phát hiện bắt quả tang.
- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/4/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,15 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo đã được đi cai nghiện bắt buộc, đã được tuyên truyền về tác hại của ma túy nên nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.
Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và có thời gian để bị cáo cai nghiện từ bỏ ma túy, cũng nhằm đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.
[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, không có tài sản gì có giá trị vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vấn đề khác có liên quan trong vụ án: Về người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai tình cờ gặp ở ngoài đường, không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về vật chứng vụ án: Đối với chiếc xe BKS 88S6 - 27xx, bị cáo khai chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng được mua ở cửa hàng xe máy cũ, quá trình mua bán không có giấy tờ. Qua tra cứu chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng của Công an tỉnh Sơn La nên xác định đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, và là tài sản duy nhất có giá trị trong gia đình. Khi bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy vợ bị cáo không hay biết, nên cần trả lại xe cho vợ bị cáo.
Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn H 15 (mười lăm) tháng tù; Được khấu trừ 53 ngày tạm giam, còn phải thi hành tiếp là 13 tháng 07 ngày.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo nhập trại thụ hình. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2- Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh Nilon màu xanh được đựng trong 01 (một) phong bì thư do bưu điện Việt Nam phát hành đã niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Mặt sau phong bì có dán giấy niêm phong có mã số 027452, trên giấy niêm phong được đóng 2 dấu đỏ của Cơ quan CSĐT công an huyện Sông Mã.
+ 0,10 gam Heroine cùng 01 phong bì niêm phong cũ được đựng trong 01 phong bì màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La được niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Mặt sau phong bì có dán giấy niêm phong có mã số 000444, trên giấy niêm phong được đóng 2 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La.
- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lường Thị T: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đỏ - đen, biển kiểm soát 88S6- 27xx, số khung: 025327, số máy: 102536, xe đã qua sử dụng.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3- Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/7/2020).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2020/HS-ST
Số hiệu: | 52/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về