TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 51/2021/HSST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 53/TLST- HS, ngày 12 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST- HS ngày 18/11/2021 đối với bị cáo:
Lò A T (tên gọi khác: Không) - sinh ngày 16/7/1984, tại huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nơi cư trú: Thôn D, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Lò A L (đã chết) và bà Giàng Thị S - sinh năm 1960 trú tại thôn D, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Vợ: Vàng Thị S - năm sinh 1985.
Trú tại: Thôn D, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Bị cáo có 04 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2021.
Tiền án: Không. Tiền sự: Không.
Nhân thân: Bị cáo là người thường xuyên sử dụng chất ma túy.
Bị cáo là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nay đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng, theo quyết định số 44- QĐ/UBKTHU ngày 15/10/2021 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy B, tỉnh Lào Cai.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2021. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.
Người bào chữa cho bị cáo Lò A T là bà Nguyễn Thị Hương T - Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau: Khoảng 12 giờ ngày 09/10/2021, tổ công tác của Công an huyện B, tỉnh Lào Cai phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần bên trái Lò A T đang mặc 01 lọ nhựa hình trụ tròn, bên trong có 18 (mười tám) gói nilon màu trắng, trong các gói này đều chứa chất bột khô màu trắng, vón cục (Lò A T khai nhận là Hêrôin mua về để sử dụng cho bản thân), ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ 01 xe mô tô BKS: 24B1 - 491.49. Qua điều tra đã xác định được như sau: Sáng ngày 06/10/2021, tại thôn T, xã D, huyện B Lò A T mua của một người đàn ông không quen biết 01 (một) gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng với giá 1.200.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày Lò A T lấy gói ma tuý mua được ra dùng dao lam chia thành 22 (hai mươi hai) gói nhỏ rồi gói lại bằng nilon màu trắng, Lò A T cất số ma túy trên vào lọ nhựa. Từ ngày 06/10/2021 đến ngày 09/10/2021 Lò A T đã sử dụng hết 04 (bốn) gói ma tuý. Sáng ngày 09/10/2021, Lò A T điều khiển xe mô tô đi từ nhà đến thôn N, xã C để lấy củi khô, khi đi Lò A T mang theo lọ nhựa có chứa 18 (mười tám) gói ma túy. Khoảng 12 giờ cùng ngày, Lò A T điều khiển xe mô tô đi từ thôn N, xã C về nhà thì bị tổ công tác của Công an huyện B phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Lò A T nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 09/10/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai đã xác định: 18 (mười tám) gói nilon màu trắng, trong các gói này đều chứa chất bột khô màu trắng, vón cục thu giữ của Lò A T có tổng khối lượng 1,37 (một phẩy ba mươi bảy) gam, trích mẫu 0,16 (không phẩy mười sáu) gam tiến hành giám định, còn lại 1,21 (một phẩy hai mươi mốt) gam hoàn trả cơ quan trưng cầu.
Kết luận giám định về ma túy số 289/GĐMT ngày 14/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 1,37 (một phẩy ba mươi bảy) gam chất bột khô, màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).
Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, truy tố bị cáo Lò A T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:
+ Tuyên bố bị cáo Lò A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò A T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
+ Về hình phạt bổ sung: Không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
+ Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 1,21gam Hê rô in cùng 01 lọ nhựa hình trụ có nắp vặn, các mảnh ni lon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định được tái niêm phong trong bì thư. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 24B1- 491.49.
+ Về án phí: Buộc bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của người bào chữa: Sau khi đánh giá các tài liệu, chứng cứ cho rằng: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Lò A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò A T mức thấp nhất của khung hình phạt là 01 năm tù.
+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh và hình phạt: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lò A T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố. Như vậy đã đủ căn cứ kết luận, bị cáo Lò A T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự mua 1,37 gam Hê rô in cất giấu với mục đích để sử dụng đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Lò A T thực hiện là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Gây mất trật tự, trị an ở địa phương, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe, suy thoái giống nòi, là mầm mống dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Để giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, góp phần đẩy lùi và loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Cần phải đưa bị cáo ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật và quyết định mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò A T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo.
Về mức hình phạt: Bị cáo T tàng trữ 1,37 gam Hê rô in, được hưởng 01 tình tiết giản nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nên mức hình phạt đối với bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với quy định của pháp luật. Còn mức hình phạt như người bào chữa cho bị cáo đề nghị là nhẹ chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Nên không được chấp nhận.
[2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lò A T là người nghiện ma tuý, tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có lợi nhuận, không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[3] Về vật chứng gồm: 1,37gam Hê rô in thu giữ của bị cáo, trích mẫu 0,16 gam giám định không hoàn lại, còn 1,21 gam Hê rô in cùng 01 lọ nhựa hình trụ có nắp vặn, các mảnh ni lon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định được tái niêm phong trong bì thư là vật cấm tàng trữ và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô kiểu dáng xe Win, nhãn hiệu Deteh, biển kiểm soát 24B1- 491.49 thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo chỉ sử dụng làm phương tiện tham gia giao thông, không sử dụng vào việc cất, giấu ma túy, nên không phải là vật chứng của vụ án, cần tuyên trả lại cho bị cáo.
[4] Về các vấn đề khác có liên quan: Đối với người đàn ông bị cáo T khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 06/10/2021 tại thôn T, xã D, huyện B. Qua điều tra, xác minh không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, nên không xử lý được.
[5] Về hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện B, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[6] Về án phí: Bị cáo Lò A T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò A T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 09/10/2021.
3. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu huỷ: 1,21 (một phẩy hai mươi mốt) gam Hêrôin cùng 01 lọ nhựa hình trụ có nắp vặn, các mảnh ni lon màu trắng và bì niêm phong ban đầu gửi giám định được tái niêm phong trong bì thư. Trên một mặt bì thư có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Lò A T ngày 09 tháng 10 năm 2021, tại thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai”. Tại các mép dán của bì thư có chữ ký ghi rõ họ, tên của: Bùi Thị H, Lầu A H, Lò A T, hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lào Cai.
Trả lại cho bị cáo Lò A T 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng xe Win, nhãn hiệu Deteh, biển kiểm soát 24B1- 491.49 xe đã qua sử dụng.
4. Về án phí: Buộc bị cáo Lò A T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) 5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 51/2021/HSST
Số hiệu: | 51/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về