Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 50/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2024/TLST-HS, ngày 05 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2024/QĐXXST- HS, ngày 01 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:

Họ và tên: Pờ Văn N, tên gọi khác: Không có, sinh năm 1982, tại huyện P, tỉnh Lai Châu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Bản C, xã K, huyện P, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 0/12 (Không biết chữ); dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ: Pờ Văn S, sinh năm 1962; mẹ đẻ: Lừu Thị N1, sinh năm 1962; vợ: Lò Thị N2, sinh năm 1987; bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2023 đến ngày 24/12/2023, hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ, ngày 15/12/2023, khi Pờ Văn N đang ở nhà thì có 01 người đàn ông đến nhà N. Qua nói chuyện, người đàn ông nhờ N mua hộ Heroine với số tiền 200.000 đồng, N đồng ý. N góp thêm 100.000 đồng vào số tiền 200.000 đồng của người đàn ông thành 300.000 đồng rồi đi bộ ra đường và xin đi nhờ xe của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu để đi lên xã Bản Lang, huyện Phong Thổ tìm mua Heroine. Khi đi đến khu vực ngã ba rẽ vào Ủy ban nhân dân xã Bản Lang thì N xuống xe. N gặp một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ, N nhờ người này đi mua hộ Heroine, người này đồng ý. N đưa cho người đàn ông số tiền 300.000 đồng để đi mau Heroine rồi đứng đợi. Khoảng gần 30 phút sau thì người đàn ông này quay lại đưa cho N 01 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng buộc thắt lại, N nhận và cầm gói Heroine đi bộ về nhà. Khi đi đến khu vực bản Hợp 1, xã Bản Lang, N đi xuống vệ đường chia gói Heroine ra và gói lại thành 03 gói, gồm 02 gói được gói bằng nilon màu xanh, 01 gói được gói bằng nilon màu hồng rồi đi về nhà. Trên đường về, N xin đi nhờ xe của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ để về nhà. Khi về đến nhà, N lấy một ít Heroine ra sử dụng, số còn lại, N để vào trong 01 bát nhựa rồi để bát nhựa trên trạn bát. Khoảng 10 phút sau thì người đàn ông nhờ N mua hộ Heroine quay lại, N vào trong bếp lấy 02 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh ra đưa cho người đàn ông này. Nhận được Heroine, người này liền đi ra khỏi nhà N, sau đó đi đâu thì N không biết.

Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 15/12/2023, tổ công tác Công an xã Khổng Lào đã phát hiện Pờ Văn N đang tàng trữ trái phép 01 gói chất ma túy, dạng chất bột màu trắng, được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng buộc thắt lại, tại nhà ở của N. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói chất bột màu trắng, được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 chiếc bát nhựa; 01 con dao lam. N khai nhận chất bột màu trắng đó là Heroine do N cất giấu để sử dụng cho bản thân.

Bản Kết luận giám định số: 26/KL- GĐVV, ngày 15/12/2023, của ông Trần Văn H - Người giám định tư pháp theo vụ việc, kết luận: Gói chất bột màu trắng được gói bằng nilon màu hồng buộc thắt lại một đầu, có khối lượng: 0,2 gam.

Bản Kết luận giám định số: 13/KL-KTHS, ngày 17/12/2023, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin).

Tại bản Cáo trạng số: 07/CT-VKS, ngày 04 tháng 02 năm 2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Pờ Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng.

Phần luận tội, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Pờ Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Pờ Văn N từ 01 (Một) năm, 03 (Ba) tháng đến 01 (Một) năm, 07 (Bảy) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,14 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu hồng cũ, 01 con dao lam, 01 chiếc bát nhựa và vỏ niêm phong. Đối với 0,06 gam Heroine thu giữ của bị cáo đã được gửi đi giám định không hoàn lại nên không đề cập xử lý. Về án phí, áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng và không có tranh luận gì với luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội mà bị cáo Pờ Văn N đã thực hiện:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong vật chứng, các kết luận giám định, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 14 giờ 20 phút, ngày 15/12/2023, tại nhà ở của Pờ Văn N, địa chỉ: Bản Cang, xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, tổ công tác Công an xã Khổng Lào đã bắt quả tang Pờ Văn N đang tàng trữ trái phép 01 gói chất ma túy, dạng chất bột màu trắng. Pờ Văn N khai nhận, số chất bột màu trắng đó là Heroine do N mua để sử dụng cho bản thân. Qua kết quả trưng cầu giám định, xác định được: Số chất bột màu trắng thu giữ của Pờ Văn N là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2 gam.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tính chất tội phạm nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rõ Heroine là một loại ma túy, chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân gây mất trật tự xã hội và làm phát sinh tội phạm khác. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Tình tiết liên quan đến vụ án:

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác nên không có đủ căn cứ để điều tra xử lý đối với người đã bán Heroine cho bị cáo trong vụ án này.

Bị cáo khai có đi mua Heroine hộ cho 01 người đàn ông, bị cáo không biết họ tên, địa chỉ của người đàn ông này, không được hưởng lợi gì từ việc đi mua Heroine hộ cho người đàn ông trên. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để điều tra làm rõ người đàn ông nhờ bị cáo đi mua Heroine hộ và không có căn cứ để xử lý bị cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với 02 người đàn ông cho bị cáo đi nhờ xe máy, lúc đi mua Heroine và khi mua được Heroine đi về nhà, bị cáo khai nhận không biết rõ họ tên, địa chỉ của hai người này, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời để góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân và đảm bảo công tác phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng: 0,14 gam Heroine còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và 02 mảnh nilon, 01 con dao lam, 01 chiếc bát nhựa và vỏ niêm phong, đều là những vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 0,06 gam Heroine trích trong số Heroine thu giữ của bị cáo đã gửi đi giám định không hoàn lại, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo xin được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm nên cần miễn án phí cho bị cáo theo điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo, về phần xử lý vật chứng và án phí là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, các Điều: 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố:

1. Bị cáo Pờ Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Pờ Văn N: 01 (Một) năm, 06 (Sáu) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/12/2023 đến ngày 24/12/2023 (09 ngày), còn phải chấp hành: 01 (Một) năm, 05 (Năm) tháng, 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng, gồm: 0,14 gam Heroine còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh nilon màu hồng cũ; 01 con dao lam đã qua sử dụng; 01 chiếc bát nhựa màu trắng đục, bị ố vàng đã qua sử dụng và vỏ niêm phong.

(Các vật chứng khác hiện đang được lưu tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2024/HS-ST

Số hiệu:50/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về