Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm th ụ lý số: 49/2023/TLST - HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2023/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn T, sinh ngày 16/7/1993 tại xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản P, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái đoàn thể: Không; Con ông: Lò Văn D, sinh năm 1963 và bà Bạc Thị B, sinh năm 1965. Bị cáo chưa có vợ con; Đều trú tại: Bản P, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Bạc Thị B, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 19 giờ 30 phút, ngày 20/6/2023, tại bản C, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La. Tổ Công tác đội Cảnh sát hình sự kinh tế ma túy Công an huyện Q đang làm nhiệm vụ, đấu tranh phòng chống ma túy thì phát hiện một đối tượng đang có nhiều biểu hiện liên quan đến ma túy nên tổ công tác đã áp sát yêu cầu kiểm tra thì phát hiện thu giữ tại túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 (một) gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu vàng được bọc bên ngoài bằng lá khô, T khai nhận là heroin của T mua về sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng theo quy định.

Ngày 20/6/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Lò Văn T, kết quả: Lò Văn T dương tính với chất ma túy, đã niêm phong lại 01 que thử ma túy theo quy định.

Ngày 21/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định vật chứng có tổng khối lượng là 0,12 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu A1 thu giữ của Lò Văn T gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 1579/KL-KTHS ngày 22/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: “Mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy; Loại Heroine; Tổng khối lượng chất thu giữ được của Tiên là 0,12 gam”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T khai nhận: Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 20/6/2023 Lò Văn T một mình điều khiển xe máy BKS 26H1- xxxxx từ nhà tại bản P, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La đến khu vực bản C, xã M để tìm mua ma túy về sử dụng, khi đến ngã ba bản C, T gặp một người đàn ông không quen biết (T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) T hỏi “Anh có ma túy bán không?” “Có thì cho em 50 nghìn?”, người đàn ông đó trả lời “Không có đâu”, T nói tiếp “Có thì bán cho em đi”, người đàn ông nói “Thế thì đưa tiền đây”. Sau đó T lấy tiền từ trong túi quần bên phải đang mặc ra đưa cho người đàn ông đó, người đàn ông nhận tiền sau đó đưa cho Tiên 01 (một) gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu vàng, T nhặt 01 (một) chiếc lá khô ven đường rồi cho gói ma túy vừa mua được cuốn vào chiếc lá khô vừa nhặt được sau đó cất vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy quay về nhà. Khi đến khu vực bản C, xã M thì bị tổ công tác của Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ gói ma túy của T và các vật chứng liên quan.

Cơ quan điều tra tiến hành xác minh về người đàn ông bán ma túy cho T (theo lời khai của bị cáo) không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không xác định được danh tính, do vậy không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số: 36/CT-VKS-QN ngày 06 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Q phát biểu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 (Mười hai) đến 14 (Mười bốn) tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng

+ 01 (một) chiếc lá khô không nguyên vẹn

+ 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

Đối với 01 (một) chiếc xe máy BKS: 26H1 - xxxxx nhãn hiệu HONDA WAVE ALPHA màu xanh, xe máy đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn T. Quá trình điều tra xác định, số tiền dùng để mua chiếc xe máy nêu trên là tiền của vợ chồng bà Bạc Thị B và ông Lò Văn D (Bố mẹ ruột của Lò Văn T). Do không biết chữ nên bà B và ông D đã cho Lò Văn T đứng tên trên giấy đăng ký xe, việc T sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện đi mua ma túy bà B và ông D không biết. Đề nghị HĐXX tuyên trả lại chiếc xe máy nêu trên cho bà Bạc Thị B.

Về án phí: Đề nghị HĐXX căn khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án

 - Buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng);

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên Tòa về thời gian, địa điểm và diễn biến sự việc phù hợp với các căn cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ, Kết luận giám định “Tổng trọng lượng chất thu giữ được của T là 0,12 gam là chất ma túy; Loại Heroine”. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lò Văn T đã mua, cất giữ 0,12 gam chất ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân - bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét thấy: Bị cáo biết rõ chất ma túy là loại hàng Nhà nước nghiêm cấm mua bán, tàng trữ và sử dụng trên thị trường, nhưng bị cáo vẫn cố tình mua ma túy cất giữ trên người với mục đích sử dụng cho bản thân, cần lên mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và có ông nội Lò Văn Q có được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ sự phân tích trên hội đồng xét xử nhận thấy, cần có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất hành vi phạm tội, trọng lượng ma túy thu giữ của bị cáo; xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo - Để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý ở địa phương.

Về hình phạt bổ sung - phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Xét thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có tài sản giá trị lớn, thu nhập không có. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng vụ án: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng

+ 01 (một) chiếc lá khô không nguyên vẹn

+ 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

Hội đồng xét xử xét thấy đây là những vật không có giá trị sử dụng, cần tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVEALPHA màu xanh BKS: 26H1 – 06 xxx , số máy JA39E0042152; số khung RLHJA3900 HY467017, xe máy đã qua sử dụng, xe không có chìa khóa, không có cánh hai bên yếm, có 01 gương chiếu hậu bên trái , tịch thu của bị cáo Lò Văn T là tài sản chung của gia đình bà Bạc Thị B, số tiền dùng để mua chiếc xe máy nêu trên là tiền của vợ chồng bà Bạc Thị B và ông Lò Văn D. Do không biết chữ nên bà B và ông D đã cho con trai Lò Văn T đứng tên trên giấy đăng ký xe, việc Tiên sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện đi mua ma túy bà B và ông D không biết. Hội đồng xét xử xét thấy trả lại cho bà Bạc Thị B quản lý và sử dụng theo điểm b, khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

[4] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lò Văn T vào ngày 20/6/2023, tại khu vực bản C, xã M, huyện Q, tỉnh Sơn La. Bị cáo không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Việc trao đổi mua ma túy diễn ra trên đường, không có người làm chứng, ngoài lời khai của bị cáo ra không còn nguồn tài liệu chứng cứ khác. Do đó không đủ cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

[5] Về án phí: Bị cáo Lò Văn T, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng vụ án: Căn điểm c khoản 2, điểm b, khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015.

Tich thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh giấy bạc màu vàng + 01 (một) chiếc lá khô không nguyên vẹn + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

Trả lại cho bà Bạc Thị B 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE ALPHA màu xanh BKS: 26H1 – xxxxx, số máy JA39E0042152; số khung RLHJA3900HY467017, xe máy đã qua sử dụng, xe không có chìa khóa, không có cánh hai bên yếm, có 01 gương chiếu hậu bên trái.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 48/2023 ngày 08/9/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án - Buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/9/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về