TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLST-HS ngày 29/10/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2021/QĐXXST-HS ngày 06/12/2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Tấn T , sinh ngày 01/11/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký HKTT: Số , huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Trần Tấn Ch và bà Lương Thị Thúy O; Vợ, con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2021 đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 08/8/2021, Trần Tấn T điều khiển xe mô tô biển số 84F9-X đến khu vực ngã ba đường Nguyễn Bình - Huỳnh Tấn Phát, ấp 3, xã Phú Xuân, huyện N, gặp một thanh niên tên A (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 03 gói ma túy đá giá 450.000đ và mua 01 ống thủy tinh cùng một đoạn ống nhựa màu trắng (dùng để sử dụng ma túy) giá 50.000đ. T cất số ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy vào trong tay áo đang mặc rồi đi về nhà, trên đường về đến trước khu vực trước nhà số 82, ấp 3, xã Long Thới, huyện N thì bị Công an xã Long Thới, huyện N kiểm tra bắt quả tang.
Tại Kết luận giám định số 4520/KLGĐ-H ngày 17/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: “Tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Tấn T và hình dấu Công an xã Long Thới, huyện N được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy thể rắn, có khối lượng 0,4589g, loại Methamphetamine” Tại bản Cáo trạng số 49/CT-VKS-NB ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Trần Tấn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận:
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Tấn T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 0,3672 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 đoạn ống nhựa màu trắng, 01 ống thủy tinh; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO; Giao cho cơ quan có thẩm quyền đăng thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 84F9-X, hết thời hạn đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 08/8/2021, tại đoạn đường trước số nhà 82, ấp 3, xã Long Thới, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Tấn T đang tàng trữ 0,4589 gam ma túy Methamphetamnine, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Long Thới, huyện N, Thành phố hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã đi vào con đường phạm tội, vì vậy cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.
[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.
[5] Về xử lý vật chứng:
[5.1] Khối lượng ma túy Methamphetamine thu giữ của bị cáo, sau khi lấy mẫu vật giám định, khối lượng còn lại 0,3672g là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5.2] 01 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo, bị cáo sử dụng liên với người bán ma túy, là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[5.3] 01 đoạn ống nhựa, 01 ống thủy tinh, đây là dụng cụ bị cáo mua để sử dụng ma túy, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5.4] 01 xe mô tô gắn biển số 84F9-X do ông Nguyễn Thanh N đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Tuy nhiên qua xác minh không xác định được ông N đang ở đâu nên không xác định được nguồn gốc và chủ sử hữu thực tế. Trần Tấn T khai mua xe của một thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch giá 1.500.000đ nhưng không làm hợp đồng mua bán và cũng không có giấy tờ xe. Do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả. Vì vậy, cần tiếp tục giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng thông báo tìm chủ sở hữu, hết thời hạn đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[6] Đối với người đưa ma túy cho T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện N tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Tấn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/8/2021.
- Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy tinh thể không màu có tổng khối lượng 0,3672g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra và 01 đoạn ống nhựa màu trắng, 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng, số Imei1:866346030998637, số Imei2: 866346030998629. Tình trạng đã qua sử dụng + Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô màu đen, biển số 84F9-X, số máy: LC152FMH0447818; số khung: 110-00447912. Tình trạng đã qua sử dụng, không kiểm tra bên trong máy. Hết thời hạn 01 (một) năm kể từ ngày đăng thông báo mà không tìm được chủ sở hữu chiếc xe thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
(Toàn bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2021-NK02 ngày 22/10/2021)
- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Tấn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2021/HS-ST
Số hiệu: | 50/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về