TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 50/2021/HSST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2021/HSST ngày 31/8/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST-HS, ngày 13/9/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đào Văn T, sinh năm 1984.
Nơi đăng ký HKTT: Xóm TN, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12.
Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Đào Văn S, sinh năm 1961và bà Lưu Thị H, sinh năm 1962.
Gia đình bị cáo có 05 (năm) anh, chị em. Bị cáo là con thứ 03 (ba).
Bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án: Tại bản án số 05/2019/HSST/ ngày 10/4/2019, Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt Đào Văn T 30 (ba mươi) tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 05/02/2021.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Quyết định số 3028/QĐ-UB (NC) ngày 13/12/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên quyết định đưa Đào Văn T vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 (hai mươi bốn) tháng về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt T1 sản”. Đã chấp hành xong ngày 30/8/2012.
Bị cáo Đào Văn T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2021 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên toà).
Người chứng kiến:
1. Ông Lộc Văn Tr - Sinh năm 1960 Trú tại: Xóm TN, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
(Vắng mặt tại phiên tòa).
2. Ông Đinh Thế T1 - Sinh năm 1961.
Trú tại: Xóm TN, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
(Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T1 liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại xóm TN, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Công an xã TH, huyện Đ tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện Đào Văn T có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra và T tự giác lấy trong túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 05 (năm) gói chất bột màu trắng (nghi là Heroine). Trong đó, 01(một) gói được gói bằng giấy màu đỏ, 02 (hai) gói được gói bằng giấy màu xanh, 01 (một) gói được gói được gói bằng giấy màu xanh lá cây, 01 (một) gói được gói được gói bằng giấy màu xanh trắng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong 05 gói chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1.
Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của T 01 (một) xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu trắng đên, biển kiểm soát 20C1 – 229.75.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo nhưng không thu giữ được gì.
Mở niêm phong, cân xác định trọng lượng 05 (năm) gói chất bột màu trắng thu giữ trên người bị cáo có trọng lượng 0,286g (không phảy hai tám sáu gam), niêm phong lại ký hiệu A2.
Kết luận giám định số 1037/KL-KTHS, ngày 25/6/201 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,286 gam.
Hoàn lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,273g (không phảy hai bảy ba gam) được niêm phong lại ký hiệu A2.
Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy. Khoảng 09 giờ ngày 18/6/2021bị cáo đã mượn xe mô tô biển kiếm soát 20C1 229.75 của chị Ma Thị Vân là bạn của T để đi ra ngoài có việc. Sau đó, bị cáo một mình điều khiển xe xuống khu vực Trung tâm thương mại Vincom Thái Nguyên thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01(một) gói ma túy với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn) đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, T điều khiển xe về nhà, đi đến khu vực nhà văn hóa xóm TN, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên thì T dừng xe và lấy gói ma túy vừa mua được chia thành 05 (năm) gói nhỏ. Sau đó, T chuẩn bị đi tìm chỗ sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ.
Bản Cáo trạng số 50/CT-VKSĐH ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Đào Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Đào Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Đào Văn T từ 30 (ba mươi) đến 42 (bốn mươi hai) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (18/6/2021).
Không đề nghị áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,273g (không phảy hai bảy ba gam) ma túy (Heroine) và vỏ bao gói mẫu giám định là mẫu vật còn lại sau giám định. 01 (một) bì niêm phong bên trong là vỏ bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang thu giữ của Đào Văn T, ký hiệu là A3.
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo đối với bản án.
Tại phiên toà bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào những chứng cứ và T1 liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh lụân tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T1 liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh, điều luật truy tố: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định:
Do bản thân bị cáo nghiện ma túy. Sáng ngày 18/6/2021 bị cáo mượn xe mô tô biển kiểm soát 20C1 – 229.75 của chị Ma Thị Vân, một mình xuống đến khu vực Trung tâm thương mại Vincom Thái Nguyên thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên để mua ma túy, khi đi bị cáo không cho chị Vân biết là đi mua ma túy. Tại khu vực Trung tâm thương mại Vincom Thái Nguyên thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên bị cáo đã mua 01 (một) gói ma túy (Heroine) của một người đàn ông không rõ lại lịch với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn) đồng. Khi có được ma túy (Heroine) bị cáo đi về đến khu vực nhà văn hóa xóm Thống Thất, xã TH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên thì bị cáo dừng lại và chia số ma túy vừa mua được thành 05 (năm) gỏi nhỏ mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang tìm chỗ để sử dụng ma túy (Heroine), thì bị Công an xã TH, huyện Đ kiểm tra, phát hiện, bản bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm 05 (năm) gói chất bột mầu trắng trong phong bì ký hiệu A1, đồng thời niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của bị cáo 01 (một) mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 20C1 – 229.75.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo nhưng không thu giữ được gì.
Cân xác định trọng lượng sô chất chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Đào Văn T khi bắt quả tang là 0,286g (không phảy hai tám sáu gam), được niêm phong lại ký hiệu A2.
Kết luận giám định số 1037/KL-KTHS, ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,286 gam.
Hoàn lại đối tượng giám định theo biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định là 0,273g (không phảy hai bảy ba gam) được niêm phong lại ký hiệu A2.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc .... Tr hợp sau đây thì thì phạt tù từ 01năm đến 05 năm.
… c) Heroine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;
Bản cáo trạng số 50/CT-VKSĐH ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên để xét xử là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, hành vi phạm tội: Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, đi ngược lại công cuộc đấu tranh phòng chống ma túy của toàn xã hội, xâm phạm đến các điều cấm được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hành vi đó phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nghiện ma túy nhiều năm. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là “tái phạm”.
[5] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Căn cứ vào nhân thân, tính chất của vụ án và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Thấy rằng, cần có hình phạt phù hợp cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ dài để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và giáo dục, phòng ngừa chung.
Bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định, không có T1 sản riêng. Nếu áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo sẽ không có tính khả thi. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai đã mua ma túy của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch (Không biết tên, tuổi, địa chỉ) tại khu vực Trung tâm thương mại VinCom Thái Nguyên với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn) đồng. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ và xử lý sau.
[7] Về vật chứng: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,273g (không phảy hai bảy ba gam) ma túy (loại Heroine) và vỏ bao gói mẫu giám định là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) bì niêm phong bên trong là vỏ bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang thu giữ của bị cáo, ký hiệu là A3, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả lại cho chị Ma Thị Vân chiếc mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 20C1 – 229.75 là đúng pháp luật. Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[9] Xét đề nghị của vị Kiểm sát viên tại phiên tòa. Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt từ đối với bị cáo, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo là phù hợp, đúng pháp luật và cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù từ ngày tạm giữ, tạm giam 18/6/2021.
Quyết định tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (24/9/2021) để bảo đảm thi hành án.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,273g (không phảy hai bảy ba gam) ma túy (loại Heroin) và vỏ bao gói mẫu giám định là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) bì niêm phong bên trong là vỏ bì niêm phong vật chứng khi bắt quả tang thu giữ của bị cáo, ký hiệu là A3 (Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận lập ngày 01/9/2021 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).
3. Án phí và quyền kháng cáo:
Áp dụng các Điều 135; 136; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Đào Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm. Có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2021/HSST
Số hiệu: | 50/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về