TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 48/2023/HS-ST NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 19 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Công H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 23 tháng 12 năm 2002, tại tỉnh T;
- Nơi cư trú: Ấp B, xã C, huyện Cai Lậy, tỉnh T;
- Nghề nghiệp: Không;
- Trình độ văn hoá (học vấn): 7/12;
- Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
- Họ tên cha: Ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1963;
- Họ tên mẹ: Bà Trần Thị P, sinh năm 1968;
- Bị cáo chưa có vợ con;
- Tiền án: Không có;
- Tiền sự: Không có;
- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/11/2022, chuyển sang tạm giam từ ngày 29/11/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh T;
- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Công H là người nghiện ma túy. Khoảng 19 giờ ngày 26/11/2022, Võ Tấn P, sinh năm 2002, cư trú tại ấp P, xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T nhờ H đến chở đi cầm điện thoại di động để lấy tiền số tiền 150.000 đồng trả nợ cho T, sinh năm 2001, cư trú tại ấp P, xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T và được H đồng ý. H mượn xe mô tô mang biển kiểm soát số 63P1 - xxxxx do mẹ ruột là Trần Thị P, sinh năm 1968, cư trú ấp B, xã C, huyện Cai Lậy, tỉnh T đứng tên đến nhà rước P đi. Trên đường về, H và P gặp bạn của H tên M (không rõ họ tên, địa chỉ) ở tỉnh Đồng Tháp và được M rủ sử dụng ma túy thì cả ba cùng đi đến bụi cây ven đường thuộc ấp B, xã C, huyện Cai Lậy, tỉnh T cùng sử dụng ma túy. Sử dụng xong, M cho H phần ma túy còn thừa và một viên ma túy loại thuốc lắc để sử dụng thử, nhưng H không sử dụng liền mà cất vào cốp xe. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở P đi đến quán cà phê Gạch Đỏ thuộc địa phận ấp B, xã C, huyện Cai Lậy, tỉnh T để gặp T. Cả ba cùng đi ra khỏi quán cafe, chạy được khoảng 100 mét thì H dừng lại ven đường, lấy ma túy trong cốp xe ra để sử dụng. Lúc này, T và P thấy nên cùng sử dụng ma túy với H. Khoảng 19 giờ 55 phút, sau khi sử dụng ma túy thì H chở P, T về đến cầu Kinh 12 thuộc ấp P, xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T để cho T chờ bạn gái đến rước đi tỉnh Long An, trong thời gian ngồi chờ trên cầu thì bị tổ tuần tra Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh T kiểm tra và P hiện H cất giấu ma túy trong cốp xe nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng vật chứng vụ án.
* Vật chứng thu giữ được bao gồm:
- Một viên nén hình đầu lâu, màu hồng. Bên ngoài được gói bằng một tờ giấy bạc màu trắng, nghi là ma túy;
- Một xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 63P1 - xxxxx.
* Kết luận giám định số số 124/KL-KTHS ngày 28 ngày 11 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu viên nén hình đầu lâu, màu hồng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3914 gam, loại MDMA.
* Về xử lý vật chứng trong quá trình điều tra: Ngày 19/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh T đã trao trả lại xe mô tô biển số 63P1 - xxxxx cho bà Trần Thị P.
* Cáo trạng số 41/CT-VKSTXCL ngày 11 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T truy tố bị cáo Trần Công H để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
* Tại phiên tòa:
1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T giữ quyền công tố, trình bày tranh luận và luận tội:
- Giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Trần Công H, ngoài ra còn phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
- Đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Tuyên bố bị cáo Trần Công H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
+ Áp dụng Điều 32, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Công H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù;
+ Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy đối với 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 124 ghi ngày 28/11/2022, có các chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh Tr (Giám định viên), Trần Thanh Dũng (Trợ lý giám định); chữ ký ghi họ tên Ngô Văn Mô L (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T bên trong có: 01 tờ giấy bạc màu trắng.
2. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T đã truy tố. Đồng thời, bị cáo không có ý kiến gì về việc xử lý vật chứng của cơ quan điều tra cũng như không có ý kiến gì về đề nghị xử lý vật chứng của Viện kiểm sát.
- Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thống nhất đối với quan điểm luận tội và đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa;
3. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hối hận về hành vi của mình.
Xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
- Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên - Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh T; Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát Điều tra và Viện kiểm sát thu thập là hợp pháp.
- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Như vậy, hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Trần Công H tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Khoảng 19 giờ 55 phút ngày 26/11/2022, tại cầu Kinh 12 thuộc ấp P, xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T, Trần Công H đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại thuốc lắc (tên gọi khoa học là MDMA), với khối lượng là 0,3914 gam, nhằm mục đích sử dụng.
[2.2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Công H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp lời khai của những người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Công H phạm tội “Tàng trữ trái phép chấp ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T đã truy tố bị cáo Trần Công H với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, làm mất trật tự an toàn công cộng và ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng tại địa phương. Việc mua, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân làm P sinh nhiều tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, cướp giật, đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm căn bệnh HIV/AIDS qua con đường tiêm chích ma túy. Loại ma túy mà bị cáo tàng trữ là thuốc lắc (tên gọi khoa học là MDMA), đây là loại độc dược gây nghiện, có nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Hiện nay, tệ nạn sử dụng ma túy đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước không ngừng tuyên truyền giáo dục và vận động toàn xã hội ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy thì vẫn còn những người vì mục đích tư lợi đã lén lút hoạt động tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, bất chấp pháp luật và H quả gây ra cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được H quả của hành vi nhưng vẫn sa ngã vào tệ nạn xã hội. Do đó, cần phải xét xử bị cáo thật nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[2.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[2.6] Về đặc điểm nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;
[2.7] Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ dài để cải tạo và giáo dục trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.
[3] Xử lý vật chứng:
- Các vật chứng mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh T đã ra quyết định xử lý là phù hợp theo quy định pháp luật, không có ai có ý kiến gì về việc xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét;
- Tịch thu và tiêu hủy đối với 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 124 ghi ngày 28/11/2022, có các chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh Tr (Giám định viên), Trần Thanh Dũng (Trợ lý giám định); chữ ký ghi họ tên Ngô Văn Mô L (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T bên trong có: 01 tờ giấy bạc màu trắng.
- Vật chứng hiện do cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh T quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/6/2023.
[4] Về các vấn đề khác trong vụ án:
- Quá trình điều tra, H và P đã khai được một người tên Minh (không rõ nhân thân, lai lịch) rủ H, P sử dụng ma túy, còn H được Minh cho 01 viên ma túy dạng thuốc lắc. Tuy nhiên do chưa xác định được nhân thân, lai lịch và chưa làm việc được với Minh nên kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.
- Việc H lấy phần ma tuý còn lại sau mà Minh cho để tiếp tục sử dụng thì P và T thấy rồi tự lấy sử dụng, H không có hành vi rủ rê, lôi kéo do cả ba cùng là người nghiện ma túy nên H không phạm tội tổ chức hay lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý.
- Đối với T và Võ Tấn P đều không thấy Minh đưa ma túy cho H và cũng không biết H cất giấu ma túy trong cốp xe nên hành vi của T và P không có dấu hiệu tội phạm.
- Võ Tấn P có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 26/11/2022 tại xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T nên đã bị Công an thị xã Cai Lậy ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
- T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 26/11/2022 tại xã T, thị xã Cai Lậy, tỉnh T nên Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Bà Trần Thị P, có hành vi cho H mượn xe mô tô mang biểm kiểm soát số 63P1-xxxxx, nhưng không biết H dùng phương tiện để đi sử dụng trái phép chất ma túy và cũng không biết H tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, hành vi của bà Phượng không có dấu hiệu tội phạm.
[5] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh T là phù hợp toàn bộ nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[7] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 32, 38, 46, 47, điểm s khoản 1 Điều 51, và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Điều 106, 135, 136, 290, 299, 326, 327, 331, 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Công H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Trần Công H 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 27 tháng 11 năm 2022.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu và tiêu hủy đối với: 01 bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 124 ghi ngày 28/11/2022, có các chữ ký in họ tên Nguyễn Thanh Tr (Giám định viên), Trần Thanh Dũng (Trợ lý giám định); chữ ký ghi họ tên Ngô Văn Mô L (Bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T bên trong có: 01 tờ giấy bạc màu trắng.
- Vật chứng hiện đang do cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh T quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/6/2023.
3. Về án phí: Bị cáo Trần Công H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm với số tiền là 200.000 đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Công H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST
Số hiệu: | 48/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về