TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 48/2023/HS-ST NGÀY 24/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 10 năm 2023, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 44/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2023/QĐXX-ST, ngày 10 tháng 10 năm 2023, đối với:
Bị cáo Nguyễn Trọng T, sinh ngày 02 tháng 8 năm 2005 tại Nam Lý, Đồng Hới, Quảng Bình (tính đến thời điểm phạm tội 17 tuổi 10 tháng 07 ngày); Nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố M, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học v n: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Quốc H và bà Nguyễn Nguyên H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 6 năm 2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Ninh có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phan Trọng H, Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng T: Ông Nguyễn Quốc H (là bố đẻ của bị cáo); địa chỉ: Tổ dân phố M, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1969; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1973; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Tổ dân phố M, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 20 giờ 50 ngày 09/6/2023, tại đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn V, xã L. Công an huyện Quảng Ninh phối hợp với Công an xã L tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn đã phát hiện và bắt quả tang, Nguyễn Trọng T, sinh năm 2005 đang ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu sơn đen bạc, mang BKS: 73V1-X, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện ở trong túi quần bên trái của T có 01 (một) túi nilon màu đen, bên trong chứa 05 viên nén không rõ hình dạng màu xám và 01 (một) túi nilon trong suốt đựng bên trong chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ niêm phong toàn bộ tang vật.
Quá trình điều tra, Nguyễn Trọng T khai nhận 05 (năm) viên nén màu xám là ma túy tổng hợp dạng MDMA, chất tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp dạng Ketamine, Tu n tàng trữ đang đi tìm địa điểm để sử dụng thì bị bắt quả tang Tại Kết luận giám định số 627/KL-KTH ngày 15/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 05 (năm) viên nén màu xám, không rõ hình dạng, là chất ma túy, loại MDMA, khối lượng 2,034g (hai phẩy không trăm ba mươi bốn gam). Chất tinh thể màu trắng là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 4,835 gam (bốn phẩy tám trăm ba mươi lăm gam); MDMA nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 11, Danh mục IB, Ketamine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 40, Danh mục III Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25-8-2022 của Chính phủ.
Về vật chứng của vụ án: Ngày 09/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh thu giữ: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu sơn đen bạc, mang BKS: 73V1-X, xe đã qua sử dụng.
Tại Bản cáo trạng số 45/CT-VKS, ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Trọng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật phát biểu quan điểm, luận tội chứng minh bị cáo Nguyễn Trọng T đã thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy loại MDMA, khối lượng 2,034g và chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 4,835 gam. Cáo trạng truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Trọng T mức án từ 09 đến 12 tháng tù; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịchấthu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định.
3 Người bào chữa cho Bị cáo nh t trí như tội danh, khung hình phạt của Viện kiểm sát truy tố; tuy nhiên đề nghị Hội đồng xem xét bị cáo phạm tội ở độ tuổi vị thành niên, nhận thức còn hạn chế, chưa hình thành đầy đủ tâm sinh lý; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Tu n đang là học sinh và học tại trường Trung c p nghề số 9; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có hoàn cảnh gia đình bố mẹ ly hôn, đang ở với bố nên ảnh hưởng đến tâm lý. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nh t để sau này bị cáo được tiếp tục học tập.
Bị cáo Nguyễn Trọng T nh t trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên, hối hận về hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Ninh, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo thống nhất, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phù hợp về thời gian, địa điểm và quá trình diễn biến của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào lúc 20 giờ 50 ngày 09/6/2023, Nguyễn Trọng T, tàng trữ ở trong túi quần bên trái 05 (năm) viên nén màu xám là chất ma túy, loại MDMA, khối lượng 2,034g (hai phẩy không trăm ba mươi bốn gam) và chất tinh thể màu trắng là chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 4,835 gam (bốn phẩy tám trăm ba mươi lăm gam), mục đích để sử dụng. Hành vi của Nguyễn Trọng T thuộc lỗi cố ý, bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hai chất ma túy dưới 100%. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố c u thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo biết ma túy là loại chất gây nghiện có nguy cơ gây hại rất lớn cho xã hội, Nhà nước cấm sử dụng, nhưng bị cáo vẫn cố tình cất giữ để sử dụng. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, tương ứng với tính chất vụ án, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung, góp phần đấu tranh phòng, chống tệ nạn và các tội phạm về ma túy trong đời sống xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên, nhận thức còn có phần hạn chế, nên cần áp dụng các quy định tại Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt, nhằm đảm bảo tính giáo dục, răn đe đồng thời đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Trọng T khai nhận đã mua số ma tuý từ một người phụ nữ ở khu vực đường Đ, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể, do đó cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa có kết quả, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra và xử lý sau.
Đối với chiếc xe môtô YAMAHA, loại SIRIUS, màu sơn đen bạc, mang BKS:
73V1-X mang tên Hoàng Thị T cho ông Nguyễn Quốc H (bố bị cáo) mượn, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy nhưng bà T và ông H không biết nên không xử lý.
[4] Về vật chứng vụ án: Khối lượng chất ma túy thu giữ trong vụ án sau khi giám định đã được niêm phong trong phong bì dán kín là vật c m tàng trữ, lưu hành nên cần tịchấthu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với 01 (một) chiếc xe môtô YAMAHA, loại SIRIUS, màu sơn đen bạc, mang BKS: 73V1-X mang tên Hoàng Thị T, ngày 28/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh ra Quyết định xử lý vật chứng cho chủ sở hữu bà Hoàng Thị T là đúng với quy đinh tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự nên HĐXX miễn xét.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Trọng T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106;
khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136; Điều 260; khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 298; khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn ch p hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09 tháng 6 năm 2023.
2. Về xử lý vật chứng vụ án: Tịchấthu tiêu hủy 1,909 gam mẫu ký hiệu A1 sau khi giám định chứa trong túi nilon, ngoài có ghi nội dung “A1”; 4,723 gam mẫu ký hiệu A2 sau khi giám định chứa trong túi nilon, ngoài có ghi nội dung “A2”, toàn bộ vỏ bao gói được đựng trong 01 phong bì thư dán kín, trên ghi nội dung “627/KL- KTHS” có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh ngày 02 tháng 10 năm 2023.
3. Án phí sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Trọng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST
Số hiệu: | 48/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về