Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 48/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2023/TLST-HS ngày 11/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2023/QĐXXST-HS ngày 24/8/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Tá T, sinh ngày 10/10/1963 tại xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ H (đã chết) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1934; có vợ là Phạm Thị Minh N, sinh năm 1958 và 05 người con, lớn nhất 33 tuổi, nhỏ nhất 24 tuổi; tiền án (01 tiền án): Ngày 08/8/2022 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 08/8/2023) về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự, tại Bản án số 96/2023/HSPT; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01/11/2019 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 10.000.000đ về hành vi đánh bạc, theo Quyết định số 5847/QĐ-XPVPHC (đã chấp hành nộp phạt); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/5/2023 đến ngày 16/5/2023 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Tá T: Ông Võ Quốc H1 - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Minh T1, sinh năm 1983; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Anh Võ Tá N1, sinh năm 1982; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Số nhà G, đường L, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

+ Chị Lê Thị Thanh T2, sinh năm 1985; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1934; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Anh H2, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Lê Quốc Đ, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Võ Quốc L, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bằng các biện pháp nghiệp vụ, vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 11/5/2023 tại nhà bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1934, trú tại thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, Đội cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện H phối hợp với Công an xã S, Công an xã S1, Công an xã S2 phát hiện Võ Tá T, sinh năm 1963, trú tại thôn L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi thấy lực lược Công an, T vứt một túi ni lông màu hồng xuống nền nhà. Tổ công tác yêu cầu Võ Tá T nhặt túi ni lông vừa vứt mở ra để kiểm tra và phát hiện bên trong có 02 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY. Võ Tá T khai nhận hai viên nén màu hồng nà là ma túy tổng hợp, thường gọi là Hồng phiến của T vừa mua vào sáng ngày 11/5/2023 để về sử dụng. Tại thời điểm bắt quả tang, còn có hai người đàn ông đang cùng ở với T là Nguyễn Anh H2, sinh năm 1990, trú tại tổ dân phố C, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Tĩnh và Lê Quốc Đ, sinh năm 1980, trú tại tổ dân phố A, thị trấn V, huyện V, tỉnh Hà Tĩnh. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra người H2 và Đ nhưng không phát hiện và thu giữ gì. Xét thấy hành vi của Võ Tá T là vi phạm pháp luật nên lực lượng chức năng đưa Võ Tá T cùng tang vật có liên quan đến trụ sở UBND xã S biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số: 484/KL-KTHS, ngày 16/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh H kết luận: 02 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1880gam.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 11/5/2023, Võ Tá T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xanh dương đeo biển kiểm soát 38P1 – X từ nhà ở thôn L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đi đến Trung tâm Y tế xã S, huện H để điều trị cai nghiện ma túy bằng thuốc Methadone. Khoảng 08 giờ 50 phút cùng ngày, sau khi uống thuốc xong, T điều khiển xe đi về đến khu vực cổng chào xã S thuộc địa phận thôn B, xã S thì gặp hai nam thanh niên đang đứng bên đường. T nói chuyện và hỏi mua Hồng phiến thì được hai người này bán cho hai viên Hồng phiến đựng trong túi ni lông màu hồng với giá 200.000đ. T cầm túi ni lông đựng Hồng phiến ở tay phải rồi điều khiển xe qua cầu T xã S thì gặp Nguyễn Anh H2 và Lê Quốc Đ đang đi xe máy cùng nhau. T rủ H2 và Đ đi chơi, hai người này đồng ý. Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, khi T cùng H2 và Đ đang ngồi chơi tại nhà bà Nguyễn Thị V (mẹ T), phát hiện lực lượng Công an nên T vứt túi ni lông đựng hai viên Hồng phiến đang cầm ở tay phải xuống nền nhà thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

+ 0,1880 gam Methamphetamine, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,0973 gam, cùng toàn bộ bỏ bao gói được cho vào 01 phong bì thư màu trắng, được dán kín, trên mép có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đối tượng Võ Tá T;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh dương, đeo biển kiểm soát 381 - X, xe đã qua sử dụng, trên xe không có tài sản gì.

Toàn bộ số vật chứng đã được Cơ quan điều tra chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H cất giữ để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại cáo trạng số 48/CT-VKS-HS ngày 09/8/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Võ Tá T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Võ Tá T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; khoản 5 Điều 65; Điều 56 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt 06 tháng tù của Bản án số 96/2022/HSPT ngày 08/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, buộc bị cáo phải phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 18 đến 21 tháng tù, bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/5/2023 đến ngày 16/5/2023; đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Hoàn toàn đồng ý về nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo Võ Tá T, tuy nhiên xét thấy với điều kiện hoàn cảnh, nhận thức của bị cáo thì mức hình phạt theo đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có phần hơi cao, nên đề nghị xem xét giảm mức hình phạt cho bị cáo dưới mức đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, mặt khác xét thấy bị cáo từng tham gia quân đội nên đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo đã thừa nhận về hành vi về hành tàng trữ ma túy của mình. Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát và bị cáo không kêu oan, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Tá T tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/5/2023, tại nhà bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1934, tại thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, Võ Tá T đã bị lực lượng Công an huyện H phát hiện và bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Với trọng lượng ma túy bị cáo tàng trữ 0,1880gam là Methamphetamine thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống. Do đó cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có một tiền án, nên bị cáo phải chịu tính t iết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, bị cáo là thương binh 1/4 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, phạm tội trong thời gian thử thách án treo, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Xét mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát để xuất tại phiên tòa là phù hợp vừa thể hiện tính răn đe, nghiêm khắc của pháp luật, nhưng đồng thời cũng thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối với bị cáo, một người có công với cách mạng, là thương binh loại A, hạng 1/4, đã phải bỏ lại 1 phần có thể ở chiến trường (hiện bị cáo bị cụt 1/2 chân trái). Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách án treo nên cần áp dụng khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 06 tháng tù, nhưng được hưởng án treo của Bản án số 96/2022/HS-PT ngày 08/8/2022 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng một số hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo Võ Tá T là đối tượng nghiện ma túy, có mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng, hiện là thương binh 1/4 và là người cao tuổi, do đó cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số Methamphetamine là vật cấm lưu hành, còn toàn bộ vỏ, bao gói (dùng để đựng ma túy) là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh dương, số khung VYAS5HU93YA000412, số máy 5HU900412 được cấp biển kiểm soát 37K6 - X, giấy tờ xe đăng ký mang tên anh Võ Tá N1, đến năm 2018 anh N1 cho anh Nguyễn Minh T1 chiếc xe này (nhưng anh T1 chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ), trong quá trình sử dụng thì anh T1 làm rơi chiếc biển kiểm soát của chiếc xe. Sau đó khi mượn được chiếc xe từ anh T1, Võ Tá T đã nhặt được trên đường biển kiểm soát 38P1 - X và đeo vào chiếc xe đã mượn của anh T1. Quá trình điều tra xác định biển kiểm soát 38P1 - X được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave S, đăng ký mang tên chị Lê Thị Thanh T2, quá trình sử dụng thì chị T2 đã làm rơi chiếc biển kiểm soát được cấp nên đã làm thủ tục và đã được cấp lại chiếc biển kiểm soát này. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh dương trên cho anh Nguyễn Minh T1 theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Hình sự; còn đối với chiếc biển kiểm soát được gắn vào chiếc xe này cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật áp dụng; tội danh truy tố; mức hình phạt; xử lý vật chứng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý: Xét việc giảm mức hình phạt dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, cũng như cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, theo như đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[9] Về các nội dung khác:

Bà Nguyễn Thị V (mẹ bị cáo), anh Nguyễn Anh H2 và anh Lê Quốc Đ có mặt khi bị cáo bị bắt quả tang về hành vi phạm tội, nhưng cả bà V, anh H2 và anh Đ đều không liên quan gì đến số ma túy do bị cáo tàng trữ, nên những người này không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Đối với anh Nguyễn Minh T1 là người cho bị cáo mượn xe mô tô, nhưng khi cho mượn anh T1 không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, do vậy có không căn cứ xem xét trách nhiệm đối với anh T1.

[10] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi và là người có công với Cách mạng nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, để miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Tá T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Tá T 12 tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” tại bản án số 96/2022/HS-PT ngày 08/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Buộc bị cáo Võ Tá T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 18 tháng tù, bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/5/2023 đến ngày 16/5/2023. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư màu trắng có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỶ THUẬT HÌNH SỰ”, được dán kín, trên mép dán có chữ ký của các thành phần gia niêm phong và bị cáo Võ Tá T, bên trong đựng toàn bộ vỏ, bao gói và 0,0973 gam Methamphetamine;

Trả lại cho anh Nguyễn Minh T1 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh dương, xe đã qua sử dụng, trên xe không có tài sản gì; tịch thu, tiêu hủy chiếc biển kiểm soát 38P1 - X được đeo trên chiếc xe này.

(Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhân vật chứng ngày 09/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2023/HS-ST

Số hiệu:48/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về