TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 48/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXXST-HS ngày 15/9/2022 đối với bị cáo:
Ngô Kim V (tên thường gọi khác: Nhỏ), sinh năm 1981 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn L và bà Võ Thị M; anh, chị, em ruột có 06 người lớn nhất sinh 1975, nhỏ nhất sinh 1995, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; có vợ là Chế Thị Kim H và con là Ngô Thị Chế V1, sinh năm 2008 và Ngô Đức Q, sinh năm 2010; tiền án: không có; tiền sự: không có. Nhân thân: Ngày 21/10/1997 bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xóa án tích; Ngày 25/8/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 6 năm tù về tội “Hiếp dâm”, đã xóa án tích; Ngày 29/10/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 6 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã xoá án tích; Ngày 10/8/2016, bị Công an thị trấn P, huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự trong khu dân cư”; Ngày 09/10/2018, bị Công an phường P, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự trong khu dâu cư".
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện N. (có mặt tại phiên tòa) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Chế Thị Kim H, sinh 1986. Địa chỉ: Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 22/3/2022, tại Khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận bắt quả tang Ngô Kim V đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tạm giữ trong túi quần của Văn 01 vỏ gói thuốc là JET chứa 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 gói nylon dạng miệng khép dính viền màu đỏ chứa 08 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 700.000 đồng. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Văn tại khu phố x, thị trấn P, huyện N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận phát hiện thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy bên trong đang có chứa 0,1996g ma túy loại Methamphetamine và tiếp tục tạm giữ 02 điện thoại di động: một cái loại Vivo màu xanh, màn hình cảm ứng số IMEI 1: 867251050654780; số IMEI 2: 867251050654798; một cái loại Motorola, màu đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, máy không lên nguồn và 01 thẻ ATM ngân hàng Agr, số 9740X7761760 tên NGO KIM V.
Tại Cơ quan điều tra, Ngô Kim V khai nhận tổng số ma túy nêu trên là của Văn mua được từ một người tên Tú (chưa rõ lại lịch) tại khu vực gần Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận vào ngày 21/3/2022 về để sử dụng.
Tại Bản Kết luận giám định số 74 ngày 25/3/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận xác định:
Chất tinh thể màu trắng bên trong 08 gói nilon thu giữ của Ngô Kim V tại thời điểm bắt quả tang là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,2891g (M1). Hoàn trả khối lượng mua tuý sau giám định là 1,1619g Methamphetamine;
Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon đựng trong vỏ gói thuốc Jet thu giữ của Ngô Kim V tại thời điểm bắt quả tang là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,1891g (M2). Hoàn trả khối lượng ma tuý sau giám định là 0,1663g Methamphetamine;
Chất rắn màu trắng thu được trong bộ dụng cụ sử dụng ma tuý tại thời điểm khám xét chỗ ở của Ngô Kim V là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,1996g (M3). Hoàn lại sau giám định là 0,1718g Methamphetamine.
Cáo trạng số 48/CT-VKS-HS ngày 12/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Ngô Kim V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Văn đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Ngô Kim V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Ngô Kim V từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
Tịch thu tiêu hủy: Chất ma tuý Methamphetamine hoàn lại sau giám định (M1) là 1,1619g, (M2) là 0,1663g, (M3) là 0,1718g; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma tuý gồm 01 chai thuỷ tinh có nắp nhựa màu trắng, trên nắp có đục 02 lỗ gắn 01 ống hút nước và 01 nỏ thuỷ tinh chứa chất màu trắng.
Tuyên trả cho Ngô Kim V 01 điện thoại di động Nokia màu đen, loại phím bấm, bên trong gắn 01 sim có số thuê bao 05670X5, số IMEI 1: 357739107823256, số IMEI2: 357739109823254; 01 điện thoại Motorola màu đen, màn hình cảm ứng, không lên nguồn; Số tiền 700.000 đồng và 01 thẻ ATM ngân hàng Agr, số thẻ 97040X7761760 tên “NGO KIM V” là của Ngô Kim V không liên quan đến vụ án.
Trả cho Chế Thị Kim H 01 điện thoại di động VIVO màu xanh, màn hình cảm ứng, có gắn 01 sim số thuê bao 078X640, số IMEL 1: 867251050654780, sô IMEL 2: 867251050654798 không liên quan đến vụ án.
Đối với số tiền 700.000 đồng, khấu trừ số tiền phải nộp án phí 200.000 đồng, đề nghị trả lại cho bị can V số tiền 500.000 đồng.
Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Ngô Kim V, mặc dù Nguyễn Thị Mỹ D, Trần Xuân S, Lê Ngọc P khai báo là có mua ma tuý của V nhưng ngoài lời khai của D, S và P thì không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh V có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cho những người nêu trên. Hiện nay, S và P không có mặt ở địa phương nên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Thị Mỹ D (sinh năm 1992; trú tại khu phố 10, phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm); Trần Xuân S (Sinh năm 1986, trú tại khu phố 15, thị trấn P, huyện N) và Lê Ngọc P (Sinh năm 1994, trú tại khu phố x, thị trấn P, huyện N) có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Cơ quan Cảnh sát điều tra tách tài liệu chuyển sang Công an huyện N để xử lý là đúng quy định của pháp luật.
Đối tượng tên T1, cư trú gần Nhà máy Nhiệt điện V, huyện T, tỉnh Bình Thuận đã bán ma tuý cho Ngô Kim V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo bằng văn bản cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Bình Thuận xác minh xử lý theo thẩm quyền.
Bị cáo đồng ý với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không tranh luận gì. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 22/3/2022 tại khu phố x, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Thuận bắt quả tang Ngô Kim V đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng với tổng khối lượng ma tuý là 1,6778g loại Methamphetamine.
Hành vi nêu trên của Ngô Kim V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và đời sống xã hội, xong vẫn cố tình phạm tội.
Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Về nhân thân bị cáo là người có nhân thân xấu cụ thể: Ngày 21/10/1997 bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25/8/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 6 năm tù về tội “Hiếp dâm”; Ngày 29/10/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 6 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 10/8/2016, bị Công an thị trấn P, huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự trong khu dân cư”;
Ngày 09/10/2018, bị Công an phường P, thành phố P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây mất trật tự trong khu dâu cư".
Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung, nhất là công tác phòng, chống tội phạm ma túy trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn huyện N.
[3] Về vật chứng vụ án:
Tịch thu tiêu hủy: Chất ma tuý Methamphetamine hoàn lại sau giám định (M1) là 1,1619g, (M2) là 0,1663g, (M3) là 0,1718g; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma tuý gồm 01 chai thuỷ tinh có nắp nhựa màu trắng, trên nắp có đục 02 lỗ gắn 01 ống hút nước và 01 nỏ thuỷ tinh chứa chất màu trắng.
Tuyên trả cho Ngô Kim V 01 điện thoại di động Nokia màu đen, loại phím bấm, bên trong gắn 01 sim có số thuê bao 05670X5, số IMEI 1: 357739107823256, số IMEI2: 357739109823254; 01 điện thoại Motorola màu đen, màn hình cảm ứng, không lên nguồn; 01 thẻ ATM ngân hàng Agr, số thẻ 97040X7761760 tên “NGO KIM V” là của Ngô Kim V không liên quan đến vụ án.
Trả cho Ngô Kim V số tiền số tiền 700.000đ không liên quan đến vụ án.
Trả cho Chế Thị Kim H 01 điện thoại di động VIVO màu xanh, màn hình cảm ứng, có gắn 01 sim số thuê bao 078X640, số IMEL 1: 867251050654780, sô IMEL 2: 867251050654798 không liên quan đến vụ án.
[4] Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Ngô Kim V, mặc dù Nguyễn Thị Mỹ D, Trần Xuân S, Lê Ngọc P khai báo là có mua ma tuý của V nhưng ngoài lời khai của D, S và P thì không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh V có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cho những người nêu trên. Hiện nay, S và P không có mặt ở địa phương nên xử lý sau.
[5] Đối với Nguyễn Thị Mỹ D (sinh năm 1992; trú tại khu phố 10, phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm); Trần Xuân S (Sinh năm 1986, trú tại khu phố 15, thị trấn P, huyện N) và Lê Ngọc P (Sinh năm 1994, trú tại khu phố x, thị trấn P, huyện N) có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Cơ quan Cảnh sát điều tra tách tài liệu chuyển sang Công an huyện N để xử lý là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối tượng tên Tú, cư trú gần Nhà máy Nhiệt điện V, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận đã bán ma tuý cho Ngô Kim V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo bằng văn bản cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Bình Thuận để kiểm tra, xác minh xử lý theo thẩm quyền.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Ngô Kim V (tên gọi khác: Nhỏ) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Ngô Kim V 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 22/3/2022.
2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy: Chất ma tuý Methamphetamine hoàn lại sau giám định (M1) là 1,1619g, (M2) là 0,1663g, (M3) là 0,1718g; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma tuý gồm 01 chai thuỷ tinh có nắp nhựa màu trắng, trên nắp có đục 02 lỗ gắn 01 ống hút nước và 01 nỏ thuỷ tinh chứa chất màu trắng.
Tuyên trả cho Ngô Kim V 01 điện thoại di động Nokia màu đen, loại phím bấm, bên trong gắn 01 sim có số thuê bao 05670X5, số IMEI 1: 357739107823256, số IMEI2: 357739109823254; 01 điện thoại Motorola màu đen, màn hình cảm ứng, không lên nguồn; 01 thẻ ATM ngân hàng Agr, số thẻ 97040X7761760 tên “NGO KIM V”.
Trả cho Chế Thị Kim H 01 điện thoại di động VIVO màu xanh, màn hình cảm ứng, có gắn 01 sim số thuê bao 078X640, số IMEL 1: 867251050654780, sô IMEL 2: 867251050654798.
(Vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N ngày 23/9/2022).
Trả lại cho Ngô Kim V số tiền số tiền 700.000đ (Bảy trăm ngàn đồng) theo ủy nhiệm chi ngày 23/9/2022 giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Ngô Kim V phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/9/2022).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2022/HS-ST
Số hiệu: | 48/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Phước - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về