Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 48/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 45/2022/HSST ngày 01/6/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Q. V. T, sinh năm 1997. Nơi sinh và cư trú: Bản T, xã M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Q. V. N và bà C. T. M; vợ,con: chưa có.

Tiền sự: Không. Tiền án: Bản án số 04/2020/HSST ngày 26/02/2020, Toà án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Bản án phúc thẩm số 13/2020/HS-PT ngày 13/8/2020, TAND tỉnh Sơn La gữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/6/2021.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

2. L. V. L, sinh năm 1993. Nơi sinh và cư trú: Bản T, xã M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông L. V. T và bà L. T. B. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 29/12/2020, UBND xã Mường B, huyện M, tỉnh S áp dụng biện pháp giáo dục tại xã;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/3/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh N. X. D, sinh năm 1983. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Q. V. T và L. V. L đều là người sử dụng ma túy. Sáng ngày 17/3/2022, T và L rủ nhau chung tiền (mỗi người 150.000 đồng) đi mua ma túy để sử dụng. Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, L đưa cho T 150.000 đồng rồi cả hai đi bộ đến khu vực cầu G, thôn Phúc, xã C, huyện C mua của một người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) 01 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng. T cầm gói ma tuý trong lòng bàn tay phải rồi cùng L đi bộ đến chòi gạch cũ tại cánh đồng thôn P, xã C, huyện C, tỉnh H để sử dụng. Tại đây, T lấy một phần ma tuý từ gói ma tuý vừa mua được cho vào tờ giấy bạc châm lửa để T và L cùng sử dụng bằng hình thức hít. Đến 08 giờ cùng ngày, khi T và L đang sử dụng ma tuý thì bị Công an xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng kiểm tra; lúc này T đã thả gói ma tuý trong lòng bàn tay phải làm gói ma tuý rơi xuống đất tại vị trí Tâm đứng và bị Công an thu giữ 01 gói ni lon màu trắng, kích thước (2x6)cm; 01 giấy bạc kích thước (21,5x8,5)cm và 01 bật lửa ga màu đỏ. T và L khai nhận gói ma tuý là Heroine, cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 283/KLGĐ-PC09 ngày 18/3/2022, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: chất bột dạng cục mầu trắng niêm phong trong phong bì thu của Q. V. T và L. V. L, gửi đến giám định có tổng khối lượng là: 0,195 gam là ma túy, loại Herine.

Quá trình điều tra: Các bị các cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.

Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình thừa nhận có cất giấu ma túy để sử dụng.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Q. V. T và L. V. L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51,Điều 17, Điều 58 Điều 38 BLHS đối với hai bị cáo; bị cáo T thêm điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án. Xử phạt bị cáo Q. V. T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 18/3/2022. Xử phạt bị cáo L. V. L từ 14 tháng đến 16 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 18/3/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu, tiêu hủy 0,163g ma túy, loại Heroine mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số: 283/KLGĐ-PC09 cùng 01 mảnh giấy bạc màu trắng, kích thước (21,5x8,5)cm; 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 gói nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

Về án phí: Các bị cáo có nơi cư trú ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí sơ thẩm hình sự.

Các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định pháp luật. Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Hồi 8 giờ ngày 17/3/2022, tại cánh đồng thôn C, xã C, huyện C, tỉnh H, Q. V. T và L. V. L có hành vi cất giấu trái phép 0,195 gam ma túy, là loại Heroine , với mục đích để sử dụng, thì bị Công an xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức việc cất giữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, song để thỏa mãn nhu cầu của bản thân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi cất giấu trái phép 0,195 gam ma túy, là loại Herine của các bị cáo để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, làm mất trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo T đã bị kết án, chưa được xoá án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Nhưng xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, buộc các bị cáo phải chấp hành tù có thời hạn. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, T và L đều góp tiền mua ma tuý nên giữ vai trò như nhau, HĐXX sẽ xem xét khi lượng hình.

[4].Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5].Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 283/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương, gồm: 0,163g ma túy loại, Heroin là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 gói nilon màu trắng , 01 vỏ phong bì, còn nguyên niêm phong; 01 giấy bạc màu trắng, kích thước (21,5x8,5)cm và 01 bật lửa ga nhựa màu đỏ không có giá trị cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a,c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[6].Về các vấn đề khác:

Người đàn ông bán ma túy cho T và L, nhưng không làm rõ tên, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Q. V. T và L. V. T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Giàng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng.

Về án phí: Các bị cáo cư trú ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Q. V. T và L. V. L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Căn cứ áp dụng:

2.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Q. V. T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tính từ ngày 18/3/2022.

2.2 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo L. V. L 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn tính từ ngày 18/3/2022.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số: 283/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương, gồm: 0,163 gam ma túy, loại Hrroine và 01 mảnh giấy bạc mầu trắng kích thước (21,5x8,5)cm; 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ bì thư và 01 bật lửa ga màu đỏ, mẫu vật còn nguyên niêm phong.

(Vật chứng theo Biên bản bàn giao giữa Công an huyện Cẩm Giàng và Chi cục THA DS huyện Cẩm Giàng ngày 02/6/2022).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Q. V. T và L. V. L được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2022/HS-ST

Số hiệu:48/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về