Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 476/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 476/2022/HS-ST NGÀY 21/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 452/2022/HSST ngày 21/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 456/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy T, tên gọi khác: không; sinh ngày 03 tháng 10 năm 1992; Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã Y, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở: Xóm Đ, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh T Nguyên; Nghề nghiệp:Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Duy P và con bà Hà Thị Thự; Vợ: Ma Thị Lệ Thu; con chưa có; Tiền án - Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2022 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến: Ông Lê Thanh P, sinh năm 1965, trú tại: Tổ 05, phường T, thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên. ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 40 phút ngày 01/9/2022, tổ công tác của Công an phường T, thành phố Thái nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 07 của phường thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác áp sát và yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên trên khai tên là Nguyễn Duy T và tự giác lấy ra từ lòng bàn tay trái của T 01 gói giấy màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. T khai đó là ma tuý Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái nguyên tiến hành mở niêm P, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Duy T có khối lượng 0,258 gam, cho vào bì niêm P ký hiệu A2 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 1370/KL-KTHS ngày 09/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm P ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,258 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Duy T khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 01/9/2022,T bắt xe buýt từ nhà tại xóm Đ, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái nguyên đến khu vực Công ty Glonics Thái nguyên để tìm mua ma tuý sử dụng cho bản thân.Tại đây,T gặp và mua được của hai người đàn ông không quen biết 01 gói giấy màu xanh bên trong chứa Heroine với giá 200.000 đồng. Mua xong, T cầm gói ma tuý ở lòng bàn tay trái và đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi T đi đến khu vực tổ 07, phường T, thành phố Thái nguyên thì bị tổ công tác của Công an phường T phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Duy T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án:02 bì niêm P kí hiệu lần lượt A2,A3 là mẫu vật hoàn lại sau giám định.Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái nguyên.

Tại bản cáo trạng số 450/CT-VKSTPTN ngày 19/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên đã quyết định truy tố Nguyễn Duy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận,vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự:Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T: Từ 18 đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 02 bì niêm P ký hiệu A2, A3;

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy T và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Duy T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến với vật chứng đã thu được, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 10 giờ 40 phút ngày 01/9/2022, tại khu vực tổ 07, phường T, thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên, Nguyễn Duy T có hành vi tàng trữ trái phép 0,258 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố Thái nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số 450/CT-VKSTPTN ngày 19/10/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ” [4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng,hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Nguyễn Duy T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về việc xử lý hành vi và các đối tượng có liên quan: Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ Nguyễn Duy T khai mua của hai người đàn ông không quen biết tại khu vực tổ 07, phường T, thành phố Thái nguyên. Do không xác định được người bán ma tuý cho T nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ,xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 Bì niêm P theo đúng quy định ký hiệu A2, hoàn trả 0,242 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu;

01Bì niêm P theo đúng quy định ký hiệu A3- Bì ban đầu.

[10].Án phí và quyền kháng cáo:Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

1/ Xử phạt: Nguyễn Duy T 18 ( Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 01/9/2022; Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 Bì niêm P theo đúng quy định ký hiệu A2, hoàn trả 0,242 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu, mặt sau bì có 02 dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái nguyên có chữ ký của Hoàng Mạnh T và Trương Đăng Tam; 01Bì niêm P theo đúng quy định ký hiệu A3- Bì ban đầu, mặt sau bì có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái nguyên có chữ ký của Dương Thế Anh, Lê Thanh P, Nguyễn Quang Kha, Nguyễn Thị Bình Nguyên và Nguyễn Duy T.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 64 ngày 28/10/2022 giữa Công an thành phố Thái nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái nguyên).

4/Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Duy T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 476/2022/HS-ST

Số hiệu:476/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về