TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 47/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai, trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2024/TLST-HS ngày 18 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2024/QĐXXST-HS ngày 18/3/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Văn C; giới tính: Nam; sinh năm 1971; Nơi sinh: huyện L, tỉnh V; Nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện L, tỉnh V; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Ngô Minh Kh, đã chết và con bà Phạm Thị X, sinh năm 1942; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Vợ: Hán Thị, sinh năm 1975; con: có 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án: Không.
Tiền sự: ngày 25/11/2022 bị cáo bị Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh V ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn là 03 tháng. Đến ngày 26/02/2023 Ngô Văn C chấp hành xong quyết định này.
Về nhân thân: Ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 20/5/2018 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án’ Ngày 13/11/2019 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 15/10/2021 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án. Bị cáo đã được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt bắt quả tang, tạm giữ hồi 23 giờ 00 phút ngày 20/12/2023, đến ngày 29/12/2023 bị khởi tố và áp dụng biện pháp tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh C. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng và thương mại K. Địa chỉ: Tổ 15, phường Tân Phong, thành phố C, tỉnh C. Đại diện theo pháp luật: Ông Dương Minh T1, sinh năm 1991; Chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Văn C làm thuê tại công trình nâng cấp Quốc lộ 32 thuộc địa phận xã Thân Thuộc, huyện T, tỉnh C từ ngày 19/12/2023. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 20/12/2023, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25B1-xxxxx của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng và thương mại K, nơi C làm thuê để đi mua xăng. Sau khi mua xăng xong, C điều khiển xe đi về chỗ làm thuê. Khi C đang đi theo đường bờ kè dọc suối, cách cầu chợ T khoảng 01 km thuộc địa phận tổ dân phố 26, thị tấn T, huyện T thì gặp một người đàn ông không rõ lai lịch. Tại đây qua trao đổi, C hỏi và mua được của người đàn ông này 01 gói Heroin được gói bằng một mảnh giấy bạc màu trắng với số tiền 100.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua Heroin xong C tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về chỗ công trình đang làm thuê. Đến 17 giờ cùng ngày khi C đang trên đường đi về đến khu vực tổ dân phố 26, thị trấn T, huyện T thì bị Công an thị trấn T phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ ở trong lòng bàn tay trái của C 01 gói Heroin được gói bằng một mảnh giấy bạc màu trắng, có khối lượng 0,15 gam, mục đích để sử dụng và tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát: 25B1-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đen, xám; số khung: RLCUE3220KY123826, số máy: E3X9E-604128, xe đã qua sử dụng.
Ngày 20/12/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng và trích mẫu giám định. Tại kết luận giám định số 05/KL-TCGĐ ngày 20/12/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: Vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Ngô Văn C có khối lượng 0,15 gam. Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã lấy toàn bộ 0,15 gam chất bột màu trắng thu giữ của Ngô Văn C theo C khai nhận là Heroin gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 50/KL-KTHS ngày 24/12/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh C kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Bản Cáo trạng số 16/CT-VKS-TU ngày 18/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Ngô Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về bản kết luận điều tra số 11/KLĐT ngày 14/3/2024 của Cơ quan CSĐT Công an huyện T và bản cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T.
Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 17 giờ ngày 20/12/2023, tại tổ dân phố 26, thị trấn T, huyện T, tỉnh C, Ngô Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroin có khối lượng 0,15 gam được gói bằng một mảnh giấy bạc màu trắng mục đích để sử dụng thì bị Công an thị trấn T, huyện T phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm đề nghị về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn nên cần được xử lý nghiêm minh.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có trình độ học vấn thấp (5/12); khi công an xét nghiệm chất ma túy thì bị cáo có sử dụng chất ma túy (dương tính). Bị cáo có 01 tiền sự: ngày 25/11/2022 bị cáo bị Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh V ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn là 03 tháng. Đến ngày 26/02/2023 Ngô Văn C chấp hành xong quyết định này.
Ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 20/5/2018 bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Ngày 13/11/2019 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 15/10/2021 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án. Bị cáo đã được xóa án tích.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ được Hội đồng Bộ trưởng Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy cần thiết phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, nguồn thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: 01 gói Heroin có khối lượng 0,15 gam, đã gửi giám định hết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
01 xe mô tô biển kiểm soát: 25B1-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đen, xám; số khung: RLCUE3220KY123826, số máy: E3X9E- 604128, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng và thương mại K. Bị cáo C sử dụng xe để đi mua và tàng trữ Heroin Công ty không biết. Xét thấy cần trả lại cho Công ty là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
01 mảnh giấy bạc màu trắng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[6] Những vấn đề liên quan: Về nguồn gốc 0,15 gam Heroin, Ngô Văn C khai do C mua của một người đàn ông không rõ lai lịch tại tổ dân phố 26, thị trấn T, huyện T. Quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng và thương mại K (đại diện là ông Dương Minh T1, sinh năm 1991, có hộ khẩu thường trú tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ) là chủ sở hữu chiếc xe mô tô do Ngô Văn C điều khiển đi mua và tàng trữ Heroin. Quá trình điều tra xác định việc C dùng xe đi mua và tàng trữ Heroin thì công ty không ai biết do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xem xét xử lý là đúng quy định.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tạị Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2023 3. Về vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy một phong bì công văn của Công an huyện T, màu trắng, hình chữ nhật, bên trong đựng 01 mảnh giấy bạc màu trắng.
Trả lại một xe mô tô biển kiểm soát: 25B1-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đen, xám; số khung: RLCUE3220KY123826, số máy: E3X9E-604128, xe đã qua sử dụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng và thương mại K; Địa chỉ: Tổ 15, phường Tân Phong, thành phố C, tỉnh C. Đại diện là ông Dương Minh T1, sinh năm 1991, chức vụ: Giám đốc.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 22/3/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T với Chi Cục thi hành án dân sự huyện T) 4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2024/HS-ST
Số hiệu: | 47/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về